Chế độ độc tài gia đình trị Triều Tiên .
Đều nằm trên bán đảo Triều Tiên, có chung một dân tộc, cùng chung một nền văn hóa và nói chung một ngôn ngữ nhưng Nam Triều Tiên trở thành một quốc gia giàu mạnh, dân chủ trong khi Bắc Triều Tiên vẫn phải đối diện với nghèo đói, cô lập.
Trường hợp Nam và Bắc Hàn cho thấy một thể chế chính trị cởi mở, tự do có thể giúp một đất nước phồn thịnh. Trái lại, một chế độ độc tài gia đình trị lại kìm hãm sự phát triển của một quốc gia.
Thanh trừng nhau tranh quyền đoạt lợi.
Trong tổng số 21 quan chức cao nhất của Chính phủ Bắc Triều Tiên khóa thứ nhất thì đã có 17 người bị ám sát, hành quyết hoặc giam cầm. Từ ngày 3/8/1953, đảng Lao động Bắc Triều Tiên bắt đầu khai đao đối với các quan chức cấp cao trong Đảng, có 14 cán bộ cấp cao bị quy tội làm gián điệp, bị bắt giam, tra tấn, cuối cùng là hành quyết. Trong đó có Bí thư Ủy ban Trung ương, Bộ trưởng Nội vụ, trợ lý Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Văn hóa.
Bộ trưởng Ngoại vụ Pak Hon-yong bị xử tội tử hình ngày 15/12/1955, ba ngày sau bị hành hình. Tướng Mu-chong, từng nhậm chức trong Bát Lộ quân Trung Quốc, Tư lệnh Pháo binh Bắc Triều Tiên, tư lệnh liên quân Trung Quốc – Bắc Triều Tiên, bị giết chết năm 1956.
Hầu như những quan chức có gắn bó chặt chẽ với Liên Xô hoặc Trung Quốc và ủng hộ cải cách của Khrushchev đều bị sàng lọc. HoKai bị quy tội làm gián điệp cho Liên Xô, Kim Du-bong bị hành hình vì quy tội làm gián điệp cho Trung Quốc; sau đó là nhiều đợt thanh trừng vào các năm 1960, 1967, 1969. Năm 1972, Phó Thủ tướng kiêm Ủy viên Bộ Chính trị Pak Kum-chul bị bắt giam; năm 1977 bắt giam cựu Ủy viên Bộ Chính trị Li Yong-hi. Trong các năm 1978, 1980, 1997, Bí thư Trung ương Đảng So Hwan-hi và và 17 quan chức cấp cao khác bị hành quyết.
Nền tư pháp khủng bố:
Trong Hình pháp Bắc Triều Tiên có đến 47 Điều liên quan đến xử tội tử hình, chỉ đứng sau Trung Quốc. Với Hình pháp Trung Quốc có khoảng từ 77 – 81 Điều liên quan đến tử hình. Theo tính toán của chuyên gia luật Kang Koo-chin: Thời gian từ 1958 – 1960, ít nhất 9000 Đảng viên bị xử tử sau khi bị khai trừ Đảng. Trong lịch sử tồn tại, chính quyền Bắc Triều Tiên đã tổ chức 9 đợt sàng lọc, theo đó đã hành quyết ít nhất 90.000 Đảng viên.
Liên quan đến vấn đề hành quyết, giai cấp xuất thân là yếu tố quan trọng. Hầu hết quan tòa và luật sư đều làm việc theo lệnh của đảng Lao động Bắc Triều Tiên . Lisa Nok là một cán bộ phụ trách vật tư, bị xử 13 năm tù. Cô làm chứng: nhà tù nơi cô bị giam có tổng cộng 6000 phạm nhân, trong đó có 2000 nữ giới, hàng ngày họ bị ép làm nô lệ lao động từ 5:30 đến 12 giờ đêm, những phạm nhân nữ nào có thai sẽ bị ép phải phá thai, nếu lỡ sinh ra sẽ bị ép ngạt thở hoặc cắt cổ họng cho chết.
Phạm nhân sẽ làm liên lụy đến cha mẹ và con cái họ.
Tại Bắc Triều Tiên, phạm nhân sẽ làm liên lụy đến cha mẹ và con cái họ. Chế độ dã man này được thực thi từ 1953. Kang Chul-hwan (9 tuổi) bị bắt giam cùng cha, anh trai và ông nội.
Tại Bắc Triều Tiên, phạm nhân sẽ làm liên lụy đến cha mẹ và con cái họ. Chế độ dã man này được thực thi từ 1953. Kang Chul-hwan (9 tuổi) bị bắt giam cùng cha, anh trai và ông nội.
Thời gian đầu chính quyền độc tài Bắc Triều Tiên còn cho công khai người bị hành hình, nhưng bắt đầu từ 1984 việc hành hình được thi hành bí mật. Hầu như hiếm có nữ phạm nhân nào bị hành hình trong yên bình, trước đó họ đều phải chịu các hình phạt nhục nhã và dã man. Nhân chứng An Myung-chul nói: Tôi đã chứng kiến họ bị cắt vú, dùng cây lau nhà chọc vào âm đạo. Việc khen thưởng (cho vào Đảng hoặc đi học Đại học) người canh giữ nếu lập công bằng cách bắt được phạm nhân bỏ chạy, đã khiến nhiều kẻ cố tình ép phạm nhân trèo tường bỏ chạy để bắn chết nhằm lĩnh thưởng.
Nhiều người bị bắt bớ một cách bí mật mà không qua trình tự pháp luật. Khi có ai đó bỗng dưng mất tích, người thân và hàng xóm thường lảng tránh bàn luận vì sợ mình liên lụy.
Bắc Triều Tiên còn xây một nhà tù khổng lồ ở Siberia để giam khoảng 220.000 tù nhân, kể từ 1968, mỗi năm hành hình khoảng 36.500 người, trong vòng 46 năm (tính đến 1995) đã hành hình tổng cộng khoảng 1,5 triệu người.
Kiểm soát chặt chẽ tư tưởng và đời sống nhân dân.
Số đảng viên đảng Lao động Bắc Triều Tiên chiếm 14% dân số cả nước. Ngày 3/1/1996, Đài phát thanh Bắc Triều Tiên tuyên truyền: “Dưới lãnh đạo của đồng chí Kim Jong Il vĩ đại, toàn xã hội đoàn kết thành một thực thể chính trị kiên cố, thống nhất trong mọi hành động”. Các khẩu hiệu khi đó là: “Tư tưởng, phát ngôn và hành vi giống nhau như Kim Il Sung và Kim Jong Il”; “Cùng đoàn kết theo mười nguyên tắc của Đảng”; “Chúng ta phải củng cố uy quyền tuyệt đối của lãnh đạo chúng ta”.
Mọi người dân Bắc Triều Tiên phải tham gia hội nghị phê và tự phê, học tập lý luận hàng tuần. Mỗi người ít nhất phải tự nhận phạm một sai lầm chính trị, phê hàng xóm hoặc đồng nghiệp ít nhất hai sai lầm chính trị.
Cán bộ Bắc Triều Tiên được hưởng đặc quyền vật chất, nhưng cũng phải chịu quản chế nghiêm khắc. Họ phải sống trong một khu vực riêng, bị giám sát các cuộc điện thoại. Truyền hình và đài phát thanh chỉ nghe được thông tin do Nhà nước cung cấp. Các chuyến du lịch phải được chính quyền địa phương hoặc cơ quan công tác phê chuẩn. Mọi gia đình sống tại thủ đô Bình Nhưỡng đều nằm dưới quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
Nền chính trị khủng bố
Nền chính trị khủng bố luôn gây ảnh hưởng tồi tệ đến tâm hồn con người. Chính phủ Bắc Triều Tiên tuyên truyền ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin thì gia đình họ Kim là đại diện cho ý chí của Trời, của Đất, mục đích nhằm chứng minh quyền lực hợp pháp của nhà họ Kim.
Nền chính trị khủng bố luôn gây ảnh hưởng tồi tệ đến tâm hồn con người. Chính phủ Bắc Triều Tiên tuyên truyền ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin thì gia đình họ Kim là đại diện cho ý chí của Trời, của Đất, mục đích nhằm chứng minh quyền lực hợp pháp của nhà họ Kim.
Mức độ trung thành với chính quyền được căn cứ theo giai cấp xuất thân và nơi xuất thân, từ 1950 họ phân chia thành 51 loại, dựa vào đó quyết định về mặt xã hội, chính trị, vật chất và tương lai mỗi người. Nhưng sau 1980 chỉ còn lại ba loại chính. Người khuyết tật không được sống tại Bình Nhưỡng, người thành phần gia đình tốt không được kết hôn với người thuộc thành phần gia đình xấu. Người lùn bị bắt giam vào trại tập trung, không những bị cách ly với thế giới bên ngoài mà còn không được sinh đẻ. Kim Jong Il cho biết: “Phải loại bỏ gien người lùn”.
Năm 1959, hàng trăm phụ nữ Nhật Bản theo chồng về Bắc Triều Tiên, cuối cùng không ai được phép trở về Nhật Bản. Nhiều phụ nữ Nhật bị nhốt vào trại tập trung, bị hại chết. Chính quyền Bắc Triều Tiên dùng những người phụ nữ Nhật Bản này làm con tin để đàm phán với Chính phủ Nhật trong vấn đề xin viện trợ lương thực.
Hậu quả tai hại của nền chính trị độc tài.
Bắc Triều Tiên rơi vào nạn đói từ năm 1994, năm 1996 chỉ sản xuất được 3,7 triệu tấn lương thực, giảm 3 triệu tấn so với 10 năm trước. Tổ chức WorldVision dự tính khoảng 2 triệu người bị hại chết; Hội Chữ thập đỏ Đức ước tính có 10 nghìn trẻ em chết đói mỗi tháng, nhưng quân đội Bắc Triều Tiên thì được chu cấp đầy đủ lương thực.
Chính quyền độc tài họ Kim đã thống trị Bắc Triều Tiên gần 50 năm, trải qua 9 đợt sàng lọc trong Đảng và giết chết khoảng 100.000 đảng viên, khoảng 1,5 triệu người chết trong trại tập trung; khoảng 1,3 triệu người chết vì nội chiến; số người chết đói vào khoảng 500.000 – 2.000.000 người, ngoài ra còn khoảng 400.000 quân tình nguyện Trung Quốc bỏ mạng tại Bắc Triều Tiên và 450.000 người khác bị thương tật.
Ngoài chế độ độc tài, gia đình trị ở Bắc Hàn, trên thế giới ngày hôm nay vẫn còn có không ít nhà lãnh đạo, chế độ – thay vì giúp đất nước mình phát triển hay là giải pháp cho những vấn nạn của đất nước mình – họ lại trở thành vật cản cho sự phát triển hoặc thậm chí là nguyên nhân dẫn đến bất ổn, xung đột của chính quốc gia nơi họ nắm quyền.
Chế độ Assad ở Syria
Một ví dụ cụ thể cho trường hợp ấy là Tổng thống Bashar al-Assad của Syria – người đẩy đưa quốc gia ở Trung Đông này vào một cuộc nội chiến đẫm máu trong gần ba năm qua và cũng là nguyên nhân chính dẫn đến chia rẽ tại hòa đàm Syria, diễn ra tại Geneva, Thụy Sỹ, trong những ngày qua.
Lên nắm quyền năm 2000 – khi cha ông là Hafez al-Assad chết sau 30 năm cai trị Syria – ông Bashar al-Assad, sinh năm 1965, là một tổng thống tương đối trẻ. Tuy vậy, cũng giống như cha mình, ông vẫn tiếp tục lối lãnh đạo độc quyền, độc tài và gia đình trị. Ông và những người thân cận với ông chi phối toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở Syria.
Theo một bài viết trên The Guardian – một trong những nhật báo quan trọng tại Anh –ngày 19/07/2012, trước khi cuộc nổi dậy xẩy ra ông Assad và người thân của ông sở hữu khoảng từ 60% đến 70% tài sản của Syria và đến năm 2012, ông đã bòn rút khoảng 1.5 tỷ đôla cho gia đình và những người thân cận.
Dưới thời cai trị của ông, Syria cũng được coi là một quốc gia vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Theo các tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế, chế độ của ông Assad đã bắt bớ, tù giam, tra tấn và giết hại những tiếng nói, nhân vật chính trị đối lập.
Đó cũng là lý do tại sao, ngay sau có khi các cuộc nổi dậy ở các nước Ả Rập-Bắc Phi như Tunisia, Ai Cập và Libya, phong trào nổi dậy chống chế độ Assad cũng bùng nổ tại Syria.
Tuy vậy, khác hẳn với Zine al-Abidine Ben Ali ở Tunisia, Hosni Mubarak ở Ai Cập và Moammar Gaddafi ở Libya – những nhà độc tài bị truất phế hay chịu một kết cục bi thảm như trường hợp ông Gaddafi – ông Assad vẫn chưa bị lật đổ.
Nhưng khi dùng mọi thủ đoạn để cầm cố quyền lực, ông đã gây nên không ít tội ác trong ba năm qua. Chẳng hạn, theo một bản phúc trình của một nhóm công tố viên về tội ác chiến tranh và chuyên gia pháp y nổi tiếng quốc tế được tiết lộ mới đây, chế độ của ông đã tra tấn và giết hại khoảng 11.000 người thuộc phe đối lập.
Hơn nữa, chính sự tham quyền, cố vị ấy đã lôi kéo Syria vào một cuộc nội chiến đẫm máu, tương tàn và đẩy người dân Syria vào một thảm cảnh rất bi thương. Uớc tính đến nay, cuộc nội chiến ở Syria đã cướp đi hơn 100 ngàn sinh mạng và gần 10 triệu người Syria phải rời bỏ nhà cửa – trong số có hơn 2 triệu người phải chạy sang các nước làng giềng lánh nạn. Đó là những con số thật không nhỏ với một quốc gia chỉ có hơn 22 triệu dân.
Hội nghị Geneva khẳng định không có chuyện ông Assad nhượng bộ và đồng ý ra đi. Và điều này cũng có nghĩa là cuộc nội chiến ở Syria khó có thể kết thúc và người dân nước này vẫn tiếp tục phải chịu cảnh ly tán, chết chóc trong thời gian tới
Vẫn biết rằng lực lượng đối lập Syria cũng ít nhiều nhúng tay vào thảm cảnh này. Chẳng hạn, Nga – một đồng minh thân cận của chế độ Assad – thường cho rằng trong các nhóm đối lập có các thành phần khủng bố và những đối tượng này cũng tiến hành những vụ tàn sát ở Syria trong thời gian qua. Các tổ chức quốc tế, như Tổ chức theo dõi nhân quyền, cũng đã từng lên tiếng tố cáo phe đối lập giết hại dân thường.
Vẫn biết rằng lực lượng đối lập Syria cũng ít nhiều nhúng tay vào thảm cảnh này. Chẳng hạn, Nga – một đồng minh thân cận của chế độ Assad – thường cho rằng trong các nhóm đối lập có các thành phần khủng bố và những đối tượng này cũng tiến hành những vụ tàn sát ở Syria trong thời gian qua. Các tổ chức quốc tế, như Tổ chức theo dõi nhân quyền, cũng đã từng lên tiếng tố cáo phe đối lập giết hại dân thường.
Ngoài ra, nếu phe đối lập – trong đó có các thành phần Hồi giáo cực đoan, những người đã từng tuyên bố họ sẽ cho thiết lập một nhà nước Hồi giáo ở Syria – được lên nắm quyền, cũng không chắc Syria có thể tiến tới dân chủ, ổn định. Việc ông Mohammed Morsi cho áp dụng luật Hồi giáo bảo thủ, hà khắc của Huynh đệ Hồi giáo – một phong trào có khẩu hiệu ‘Hồi giáo là giải pháp’ – ở Ai Cập khi lên nắm quyền và cũng vì vậy bị truất phế một năm sau đó, dẫn đến tình trạng bất ổn hiện nay ở Ai Cập chứng minh điều đó.
Tuy vậy, ít ai có thể phủ nhận rằng ông Assad đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa đẩy Syria đến thảm cảnh ngày hôm nay. Do đó, dù không còn mặn mà ủng hộ phe đối lập ở Syria như họ đã từng làm với phong trào nổi dậy ở Libya, các nước phương Tây như Mỹ, Anh và Pháp nhất quyết buộc ông Assad phải từ bỏ quyền lực.
Nhưng đại diện của chính phủ ông tại Hội nghị Geneva khẳng định không có chuyện ông Assad nhượng bộ và đồng ý ra đi. Và điều này cũng có nghĩa là cuộc nội chiến ở Syria khó có thể kết thúc và người dân nước này vẫn tiếp tục phải chịu cảnh ly tán, chết chóc trong thời gian tới.
Tổng thống Yanukovych ở Ukraine
Một quốc gia khác cũng đang phải đối diện với bạo lực, bất ổn và có thể dẫn tới nội chiến nếu những xung đột hiện tại không sớm được giải quyết là Ukraine.
Có thể nói ông Yanukovych là nguyên nhân chính dẫn đưa Ukraine đến tình trạng bế tắc, bất ổn và xung đột ngày hôm nay
Xung đột giữa chính quyền Tổng thống Viktor Yanukovych và những người đối lập tại Ukraine bắt đầu từ giữa tháng 11 năm ngoái khi ông Yanukovych dừng ký kết một hiệp định liên hiệp với Liên hiệp châu Âu (EU).
Xung đột giữa chính quyền Tổng thống Viktor Yanukovych và những người đối lập tại Ukraine bắt đầu từ giữa tháng 11 năm ngoái khi ông Yanukovych dừng ký kết một hiệp định liên hiệp với Liên hiệp châu Âu (EU).
Lãnh đạo đối lập và người dân ở thủ đô Kiev và nhiều nơi khác ở Ukraine đã đồng loạt xuống đường phản đối quyết định này vì họ muốn Ukraine thoát khỏi sự phụ thuộc vào Nga và tiến gần với EU.
Trước áp lực của người biểu tình, ông Yanukovych hứa sẽ ký hiệp ước với EU. Tuy vậy, sau đó ông lại không làm như vậy vì nhận được những hứa hẹn giúp đỡ rất hẫu hĩnh – như giảm một phần ba giá khí đốt cho Ukraine – từ Nga. Điều này càng làm nhiều người Ukraine xuống đường phản đối vì họ không biết ông Yanukovych đã trao đổi gì với Nga để nhận được sự giúp đỡ ấy.
Nằm cạnh một quốc gia lớn và hơn nữa lại phụ thuộc nặng vào quốc gia ấy, đặc biệt là về năng lượng, thoát khỏi sự lệ thuộc của Nga quả thực không dễ đối với Ukraine. Càng không dễ khi Nga lại có những hứa hẹn giúp đỡ rất hấp dẫn, có thể giúp Ukraine thoát khỏi tình trạng nợ nần trước mắt, thậm chí nguy cơ bị phá sản.
Nhưng có thể nói Tổng thống Yanukovych quyết định theo Nga thay vì đến với EU vì điều đó có lợi cho chính bản thân ông hơn là có lợi cho đất nước và người Ukraine.
Theo Nga, ông không cần phải tiến hành những cải cách chính trị hay buộc phải minh bạch trong quyết sách của mình. Và như vậy, ông và những người thân của ông có thể kiếm lời từ những khoản giúp đỡ của Nga. Hơn nữa, biết đâu Nga cũng dành cho ông những ưu đãi cá nhân khác.
Nhưng để đến được với EU, ông Yanukovych và chính phủ của ông cần thực hiện một số điều kiện, trong có cần phải thay đổi luật để xây dựng một nhà nước pháp quyền, minh bạch, dân chủ. Đây là những điều mà đất nước và người dân muốn có vì chúng sẽ giúp Ukraine phát triển, phồn thịnh trong tương lai.
Đó cũng là lý do tại sao người dân ở các tỉnh thuộc phía Đông của Ukraine – nơi từng dành cho ông Yanukovych nhiều sự ủng hộ trong cuộc bẩu cử tống thống năm 2010 – cũng xuống đường biểu tình chống chính phủ của ông lần này.
Các cuộc biểu tình tại Ukraine càng trở nên bạo lực, trầm trọng một phần cũng vì chính phủ ông đã dùng vũ lực để trấn áp biểu tình và thậm chí ra luật ngăn cấm biểu tình. Nếu thay vì dùng những biện pháp mạnh, ông biết đối thoại và chịu nhân nhượng ngay từ đầu chắc Ukraine đã không phải rơi vào tình trạng bất ổn, khủng hoảng, tê liệt như hiện nay.
Hơn nữa, nếu biết làm vậy ông cũng không phải đối diện với nguy cơ bị lật đổ. Dù ông có những nhân nhượng trong mấy ngày qua – chẳng hạn giải tán chính phủ, chịu gặp lãnh đạo đối lập – xem ra giới đối lập và người biểu tình vẫn chưa chịu dừng bước. Giờ họ muốn ông từ chức và tổ chức bầu cử sớm.
Một lý do khác làm người dân Ukraine chống đối và muốn truất phế ông Yanukovych là tình trạng tham nhũng tràn làn tại Ukraine từ khi ông trở thành tổng thống. Năm 2013, Tổ chức minh bạch thế giới đã xếp Ukraine thứ 144 (trên 177 quốc gia, lãnh thổ) về mức độ tham nhũng. Trong khi đó năm 2007 quốc gia này xếp thứ 118.
Một bài viết của Shaun Walker trên nhật báo The Guardian ngày 27/01/2014 đề cập tình trạng các nhóm lợi ích và những người thân cận ông Yanukovych chi phối, khuynh đảo chính trị và kinh tế Ukraine. Theo bài viết, con trai của ông Yanukovych là Oleksandr, một nha sỹ, đã thâu tóm một tài sản rất lớn – ước tính lên đến 500 triệu đôla vào đầu năm 2014 theo một nguồn khác – trong vòng ba năm qua.
Do đó, có thể nói ông Yanukovych là nguyên nhân chính dẫn đưa Ukraine đến tình trạng bế tắc, bất ổn và xung đột ngày hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét