Đài Loan nhờ vào việc tổng thống Mỹ Truman đưa hạm đội 7 Mỹ đến đóng quân và sau này là thỏa thuận Thông báo chung Thượng Hải của Nixon nên mới không rơi vào tay cộng sản.
Nhật nhờ vào việc Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki , nhanh chân hơn Hồng Quân Liên Xô nên mới có ngày nay.
Nam Hàn nhờ vào quân đội Mỹ đuổi quân Cộng sản đến bờ sông Áp lục và sau đó đóng quân trên đất Nam Hàn nên không bị Kim Nhật Thành nhuộm đỏ.
Trong Vietnam War mặc dù người Mỹ đã khẳng định qua lời một cựu cán binh Việt Cộng trong phim là " Sau chiến thắng Bình Giã nếu Mỹ không đưa quân vào thì chúng tôi đã giải phóng miền Nam trong năm 1966" nhiều người vẫn cho là chính việc Mỹ đưa quân vào nên trao chính nghĩa cho CSBV. Họ không hiểu rằng âm mưu thôn tính miền Nam đã có từ sau Hiệp định Giơ ne vơ. Và quân Mỹ vào miền Nam sau phong trào Đồng khởi 1960. Vậy thì quân đội Mỹ đã kéo dài sự tồn tại của VNCH thêm 9 năm. Hiểu như vậy để thấy rằng 58.000 binh sĩ Mỹ hy sinh trên đất nước này không phải là vô ích.Bởi họ mới chính là kẻ chống xâm lược cho nhân dân miền Nam chứ không phải là kẻ xâm lược như lời CSVN rêu rao.
Nếu không tin xin mời các bạn hãy đọc " Bắt kẻ đồng xanh" của Võ Phiến để hiểu thêm.
Bài viết và đăng vào tháng 10 năm 1968. Phần đầu của tiểu luận, nhà văn viết về những cuộc tập kết ra bắc vào năm 1954. Chỉ có những thanh niên khỏe mạnh mới được tập kết còn những thương binh hay người lớn tuổi thì không. Rất nhiều đám cưới đã được các cán bộ tổ chức vội vã cho những thanh niên này và họ chỉ được ân ái, vui vầy với người vợ mới cưới của mình được đôi ba ngày rồi lên đường tập kết bằng đường bộ hay bằng tàu thủy. Những người vợ chưa quen được hơi chồng đã phải ở lại, cô đơn, thương nhớ. Hay nói theo từ ngữ của nhà văn, đã sớm trở thành góa bụa vì biết khi nao chồng về. Và một số lớn trẻ em, có trẻ chỉ mới 8, 9 tuổi. Chuyện gì vậy? Tại sao lại có sự tập kết ra Bắc cho những thanh niên và những đám cưới chia ly như vậy? Tại sao lại tập kết cả trẻ em? VP viết:
“Hầu hết mọi người chỉ chăm vào những cái gần hơn nữa: hàng mấy trăm ký giả mỗi tuần bu đến phòng họp báo của các phái đoàn Hoa Kỳ và Bắc Việt để ghi lấy dăm ba câu tuyên bố loanh quanh, các bình luận gia khét tiếng của báo này báo kia, đài này đài nọ bóp trán suy đoán xem lúc nào thì ngưng oanh tạc dưới vĩ tuyến 19 v.v… Thiên hạ theo dõi ý kiến của họ.
Trong lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo liệu công việc mai sau: tức một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự hẳn hòi. Và họ tiến hành thực hiện chuẩn bị, ngoài sự chú ý của dư luận: các bình luận gia có tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy may quan tâm đến chuyện ấy.
Thế mà đó mới là chuyện đáng quan tâm. Thiết tưởng là chuyện đáng quan tâm hơn cả vào lúc này. Bởi vì nếu ta mù tịt về ý định của đối phương trong tương lai thì trong cuộc đối thoại thương thuyết với họ hiện thời ta làm sao biết đặt ra những điều kiện cần thiết?
Cuộc bắn giết sắp tới giữa Miền Nam và Miền Bắc đã được cộng sản xếp đặt từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7-1954, trước ngày đình chiến theo hiệp định Genève.” (BTĐX – VP)
Những chàng trai đầy sức khỏe sẽ lao động sản xuất và sẵn sàng trở về miền Nam để chiến đấu, để được gần gũi lại với cha mẹ và người vợ đang trông ngóng họ. Những người sống tại miền Nam mà lòng luôn hướng về người thân nơi đất Bắc. Mọi cố gắng của chính quyền miền Nam nhằm xây dựng xã hội, đất nước sẽ chẳng là quan trọng đối với họ. Họ sẽ thực hiện theo những yêu cầu của những cán bộ đêm đêm lén lút mang thư từ của người thân cho họ và miền Nam sẽ chẳng bao giờ yên bình với những con người “nằm vùng” như thế cả.
“. . . Chờ cho cộng sản đặt tên rõ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức là nghĩ tệ về họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp như vậy? Trước những hoạt động có tên gọi đã từng xảy ra nhiều hoạt động không tên gọi, và trước cả các hoạt động không tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng.
Khi họ nhận thấy không thể thanh toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận điều đình với Pháp để giữ lấy nửa nước, thì họ đã đặt ngay vấn đề: còn lại nửa nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế hoạch “giải quyết”, cùng lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào năm 1954, chứ không phải năm 1958.
Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.
Cũng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:
— Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở Miền Nam;
— Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi vào các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân chờ thời cơ, có hạng đổi vùng để hoạt động, có hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động v.v…
— Địa chủ, phú nông, trót bị ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ dành để xóa bỏ hận thù. Những thành phần không dỗ dành được thì họ thủ tiêu, vì xét nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ;
— Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thể làm việc đắc lực và sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược có thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ý gây phân ly chia cách, làm thế nào để mỗi gia đình đều có kẻ đi người ở;
— Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân chúng Miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.
Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v.v… là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến cho chúng.” (BTĐX – VP)
Bao lâu sau thì tiếng súng chiến tranh nổ trở lại? Miền Nam chưa yên vui được bao năm, hàng triệu người dân miền Bắc di cư vào Nam chưa ổn định được cuộc sống thì bóng ma của chiến tranh đã ập đến. Những khó khăn của một quốc gia nhược tiểu, vừa thoát khỏi số kiếp của một thuộc địa, chắc chắn sẽ có. Những xáo trộn chính trị, tranh giành quyền bính, kinh tế khó khăn . . . khiến miền đất này khó thanh bình trọn vẹn.
Đã đến lúc phải tiêu hủy chính quyền miền Nam. Thời điểm: Ngay vào lúc thời khắc giao thừa của ngày tết âm lịch năm 1968. Lợi dụng tiếng pháo để nổ súng tấn công ngay giữa lòng Sàigòn và các thành phố lớn khác. Một cuộc tổng tiến công nổi dậy. Nhưng Hà Nội đã thất bại cho dù sự tấn công rất bất ngờ. Không chấp nhận. Cuộc nổi dậy lần thứ hai vào tháng tư chỉ sau lần thứ nhất vài tháng. Lại thất bại.
“Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.
Dân chúng Miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh rộn ràng bấy giờ, nếu không vì lý do quan trọng, chắc chắc đảng và nhà nước cộng sản hồi ấy không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh như thế. Chắc chắn. Dù tìm trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính phủ lo vợ cho quan binh túi bụi đến chừng ấy.”
. . .
“Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. — Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. — Thì Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh. (BTĐX – VP)
Mọi người đã nghe nói đến những ngôi trường ‘Học Sinh Miền Nam (HSMN)”, “Học Sinh Dân Tộc Miền Nam”. Đó là những ngôi trường được đánh số từ trường HSMN số 1 đến số 28 (!) ở khắp nơi trên đất Bắc.
“Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản họ nhằm làm nhẹ một gánh nặng nuôi dưỡng, giúp các ông tổng trưởng Kinh tế hoặc Xã hội của chúng ta. Mọi người đều rõ, tại Bắc Việt và Trung Cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn chế luyến ái.
Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, cũng không phải cộng sản họ nhằm giúp ông tổng trưởng Giáo dục của chúng ta một tay để giải quyết nạn thiếu trường ở trong này.
Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo dài chiến tranh nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công nghìn việc, nếu chuyện bắt trẻ Miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt thì họ không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam-bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một cách gấp gáp.
Họ bổ sung quân số đó chăng? — Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi. Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ con bắt được ngay tại địa phương; chứ thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ sung quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức chiến cuộc mai sau đấy.”
. . .
“Cán binh gốc người Miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại phái trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh vào Nam hoạt động, họ mừng rỡ vì có cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây xao xuyến gì trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động tâm lý bất lợi; họ lại được mong chờ đón đợi ở Miền Nam; và họ thông thạo am hiểu về dân tình cùng địa thế Miền Nam.
Như thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, phì nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta còn đang xôn xao chỉ mong ước ngưng chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng chưa đúng: thực ra các tài liệu về “Vấn đề gửi các cháu ra Miền Bắc” đã được phổ biến trong hàng ngũ cộng sản từ tháng 4-68, và thúc giục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-68, tức là liền ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống thang chiến tranh để đi tới điều đình.
Điều đình để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Điều đình đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này. Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, vì ngưng chiến thế nầy, theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất công việc. . .
Ý tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với một mơ ước xây dựng: bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào v.v… Ý tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sự. Và những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã chịu đau thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đã chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà Miền Nam, để biến họ thành con côi vợ góa. Xong rồi. Việc đã bắt đầu từ nửa năm nay rồi.” (BTĐX – VP)
Poland_JanKilinski_01Tàu Ba Lan Kilinsky chở bộ đội và thiếu nhì ra Bắc rời bến tại vàm sông Ông Đốc, Cà Mau, 1955. Lê Duẩn lên tàu này giả vờ làm như đi tập kết ra Bắc theo như qui định của Hiệp Định Genève rồi ban đêm đi xuống ca nô quay trở về đất liền, ở lại miền Nam để chỉ đạo cuộc nổi dậy lật đổ chế độ miền Nam sau này. (Ảnh và chú thích từ bài viết BTĐX của VP)
“Dù cho chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như thế. Huống chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối phương. Còn họ…, nếu vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này thoát khỏi một trận chiến tranh nữa, thì đó là ý trời, không phải là ý của họ đâu.
Ý của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược của ta.” (BTĐX – VP)
Nhà văn kết thúc bài viết.
“Còn ba mươi hai năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như bước sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không chỉ biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu. Đó chưa hẳn là cực lạc, nhưng cũng là cái gì vượt xa tình trạng hiện tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ hậu. Như thể cá vượt Vũ Môn.
Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi hai năm nữa e vẫn còn đánh nhau, nửa nước túm lấy nửa nước dìm nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ XXI. Riêng chúng ta, chúng ta chỉ còn có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ bỏ.
Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đã sáu tháng qua rồi. Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê, để nghĩ cách cứu các em, thì cũng đã muộn.
Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa bình, ngày ngày báo chí chỉ những rập rình từng thoáng tin ngưng oanh tạc, tôi hướng về các em những ý nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối.” (BTĐX – VP)
0o0o0
Một bài viết chứa đầy những đau đớn và lo âu cho đất nước, dân tộc mãi chìm đắm vào cuộc nội chiến tương tàn, vì tham vọng của một cá nhân, một nhóm người. Đến nay đã 46 năm sau khi bài viết ra mắt, nhiều sự kiện minh chứng đã xảy ra cho đất nước và trở thành lịch sử, những trang lịch sử đầy máu và nước mắt. Từ khi miền Nam lọt vào tay miền Bắc vào tháng 4 năm 1975, ngoài hai cuộc chiến tranh với Khmer Đỏ (Cam bốt) ở phía Tây Nam (1977 – 1978) và Trung cộng vào năm 1979 ở phía Bắc, có thực đất nước ta đã hết chiến tranh, đã thực sự hòa bình, dân ta đã sống đời no ấm không còn cảnh chia ly, e rằng không ai dám gật đầu, công nhận. Những cuộc chiến vô hình vẫn tiếp diễn một cách khốc liệt giữa người dân yếu đuối với cả một chính quyền không vì dân, chỉ vì lòng tham lam cho bản thân, gia đình và phe phái; một chính quyền, một đảng đang lăm le giao đất nước cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm nay từ phương Bắc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét