Thứ Ba, 27 tháng 2, 2018

MẬU THÂN 1968 DƯỚI GÓC NHÌN CỦA MỘT SỐ HỌC GIẢ VNCH.

50 năm sau trận Mậu thân 1968: những sự thật vẫn chưa được nhìn nhận.
VNCH đã sụp đổ sau 30 tháng tư 1975, bây giờ có nói cái gì thì những sự việc đã xảy ra cũng không thể thay đổi. Nhưng sự thật lịch sử vẫn cần phải được tôn trọng. Sự việc đó đã xảy ra như thế nào người viết sử cần viết lại trung thực y như vậy. Thiết lập lại “sự thật lịch sử” là “trách nhiệm đối với lịch sử - devoir de mémoire”. Đó cũng là thái độ biết tôn trọng quá khứ và dám nhận trách nhiệm đối với các thế hệ tương lai.
Ta thấy rằng những gì “phe thắng cuộc” nói về cuộc chiến là không luôn luôn đúng. “Thành kiến” và “lập trường chính trị” đã khiến cho những “sự thật lịch sử” hoặc bị chôn vùi, hoặc bị xuyên tạc. Một số bài viết, ý kiến nhân dịp 50 năm trận Mậu Thân 1968 được đăng tải trên mạng, trên báo chí… cho ta có nhận xét như vậy.
Các bài phỏng vấn ông Vũ Cao Phan, (hay của quí ông Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Quang Lập…) trên BBC, hay bài của tác giả Nguyễn Gia Kiểng “Mậu Thân 1968, giải mã một nghịch lý lịch sử” đăng trên mạng internet là những thí dụ.
Về ý kiến của ông Vũ Cao Phan, ta thấy ngay cả “tên gọi” của cuộc chiến 1954-1975 vẫn chưa ngả ngũ. Huống chi là những sự việc chính trị, ngoại giao khác liên quan tới trận Mậu Thân 1968. Dẫn:
“Trong khi người Mỹ - một bên tham chiến - gọi cuộc chiến tranh này là chiến tranh Việt - Mỹ hay chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Đông Dương lần thứ hai thì một số người Việt Nam lại gọi đây là nội chiến, lấy hình thức làm bản chất. Càng vô lý hơn khi cho rằng có một cuộc xâm lược mang ý thức hệ. Ý thức hệ ấy chỉ là người bạn đường ngẫu nhiên của lịch sử mà thôi, mọi sự gán vào đều khiên cưỡng.” Hết dẫn.
Ông Vũ Cao Phan nhìn nhận tên gọi “cuộc chiến” của phía Mỹ, “chiến tranh Việt Nam”, nhưng phản đối tên gọi cuộc chiến là “nội chiến” cũng như bản chất “xâm lược” và “ý thức hệ” của cuộc chiến.
Người Mỹ có thói quen lấy địa danh để đặt tên cho cuộc chiến. Thí dụ “chiến tranh Cao Ly”, “chiến tranh Vùng Vịnh”, “chiến tranh Iraq”... Chiến tranh Việt Nam họ gọi là… “chiến tranh Việt nam”. Cuộc chiến này có quan hệ với Lào và Campuchia nên đôi khi cũng gọi là “chiến tranh Đông Dương lần hai” (để phân biệt với cuộc chiến lần một 1945-1954 giữa Việt Minh với Pháp).
Từ sau Thế Chiến thứ II, luật quốc tế phát triển mạnh mẽ, đồng thời với sự thành hình của Liên hiệp Quốc, mục đích ngăn ngừa chiến tranh và bảo vệ hòa bình.
Người Mỹ lấy lý do gì, tư cách gì để can thiệp, sau đó là can dự vào “chiến tranh Việt Nam”, để không vi phạm vào các nguyên tắc của LHQ ?
Ta có thể tìm đọc tập tài liệu “Why Vietnam ?” của The White House, Washington, D.C., 20 août 1965 (từ nay gọi là tài liệu Why Vietnam?), có thể xem như là tập “sách trắng” của Mỹ nhằm giải thích lý do, trước dư luận quốc tế và nhân dân Mỹ, vì sao người Mỹ can thiệp vào chiến tranh VN (jus in bello - quyền được can dự vào chiến tranh).
Từ năm 1960, qua những bức thư Tổng thống Eisenhower gởi ông Diệm, ta thấy người Mỹ đã có quan niệm miền Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Quốc gia đó tên gọi “South Vietnam”. Tổng thống Eisenhower cảnh báo ông Diệm bằng thư riêng “cộng sản miền Bắc đã và đang sử dụng vũ lực để khuynh đảo chính trị và phá hoại nền tự do của quốc gia South Vietnam”.
Sang đến đời tổng thống Kennedy, cũng theo tài liệu “Why Vietnam?”, dẫn lá thư ngày 14 tháng 12 năm 1961 của TT Kennedy đã gởi cho ông Diệm, nội dung cảnh báo: “các cuộc tấn công bằng vũ lực hay các cuộc khủng bố chống lại nhân dân và chính quyền trên đất nước của quí ngài trong thời gian qua được sự ủng hộ và lãnh đạo của ngoại bang là cộng sản Hà Nội”.
Cũng trong tập tài liệu đã dẫn, tháng tư năm 1965, TT Johnson còn đi xa hơn trong lập luận VNCH là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”: “Miền bắc VN đã tấn công một quốc gia độc lập có chủ quyền là miền Nam VN”.
Diễn văn 28 tháng 7 năm 1965 của TT Johnson tố cáo: “cuộc xâm lược của VNDCCH nhằm mục đích bành trướng và thống trị của chủ nghĩa cộng sản trên toàn Châu Á. Cuộc chiến xảy ra âm thầm, không hề có “tuyên bố chiến tranh”, cũng không có việc xua quân ào ạt như ở Cao Ly (Đại Hàn), bởi vì các lãnh đạo cộng sản hiểu rõ rằng làm như vậy họ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Vì vậy họ tổ chức một cuộc xâm lược bán chính thức, qua các hình thức đưa các đạo quân đã được huấn luyện cùng vũ khí đạn dược, xâm nhập lén lút xuyên qua biên giới quốc gia”.
Tài liệu cũng chỉ rõ sự hiện diện của Mỹ ở VN là nhằm “củng cố trật tự thế giới”, từ “Berlin đến Thái Lan”, để “bảo vệ hòa bình, tự do và quyền dân tộc tự quyết”. Nhiều lần tập tài liệu trích dẫn ý kiến lãnh đạo Mỹ. Theo đó Mỹ “không có một tham vọng nào về lãnh thổ ở Việt Nam” mà chỉ bảo vệ “quyền” của nhân dân miền Nam Việt Nam. “Quyền” này thể hiện qua sự “lựa chọn tương lai của dân tộc VN bằng lá phiếu và các cuộc bầu cử tự do”. Tài liệu cũng dẫn những cam kết của các lãnh đạo Mỹ: “Đến khi nào mà Mỹ còn có thể ngăn cản, thì không có một thế lực nào có thể khuất phục dân tộc Nam Việt Nam bằng vũ lực hay bằng khủng bố”.
Tức là, quan điểm của Mỹ trong chiến tranh VN gồm hai mặt: chiến tranh “quốc tế”, nước này xâm chiếm nước kia và “chiến tranh ý thức hệ” (chiến tranh be bờ “từ Berlin đến Thái lan” chống sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản).
Sự can thiệp của Mỹ, trên phương diện “công pháp quốc tế”, đặt trên lý do gồm 3 điểm: 1/ Việt Nam Cộng Hòa là nạn nhân của một cuộc xâm lược của một quốc gia khác. 2/Mỹ tham chiến nhằm bảo vệ quốc gia VNCH. 3/ Mỹ chủ trương một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến.
Cùng “đổ bộ” vào Việt Nam, theo chân quân Mỹ là một đạo quân hùng hậu “phóng viên chiến trường” của các tạp chí Mỹ và Tây phương. Chưa bao giờ có trong lịch sử nhân loại chiến tranh được “công khai” trước mắt mọi người như chiến tranh VN. Các tổ chức quốc tế như hội Chữ thập đỏ quốc tế cũng đến VN. Không một nhà tù nào ở miền Nam lại không bị sự “kiểm soát” của các cơ quan này. Luật quốc tế về chiến tranh (jus ad bellum) đã “hạn chế”, nếu không nói là “trói tay” những hành động của quân Mỹ và VNCH.
Vấn đề là luật về chiến tranh chỉ áp dụng (gắt gao) cho một phía: Nam Việt Nam. Người ta nói Mỹ và VNCH thua không phải ở chiến trường, mà ở Paris, ở Luân Đôn, Washington.
Việc tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam vì vậy phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc, điều 51 về “quyền tự vệ chính đáng”, cũng như tương đồng với nghị quyết ngày 25 tháng 6 năm 1950 của Hội đồng bảo an LHQ về vấn đề quân Bắc Hàn xâm lược Nam Hàn.
Quan điểm của Mỹ là không hề có cuộc “nội chiến” nào ở Nam VN. Điều này phù hợp với quan điểm của ông Vũ Cao Phan.
Nhưng đâu là ý nghĩa của cuộc “tổng tấn công và nổi dậy”, mà theo ông Vũ Cao Phan, là “đạt kết quả ngoài dự kiến”, khiến cho Mỹ “xuống thang và cuối cùng là cuộc chiến kết thúc” ?
Ngay ở ý nghĩa của cụm từ “tổng tấn công và nối dậy” đã bộc lộ tính “nội chiến” của cuộc chiến.
Nếu ông Vũ Cao Phan không nhìn nhận chiến tranh VN là một cuộc “nội chiến” thì “kết quả ngoài dự kiến” (của trận Mậu thân) là gì ?
Nếu ta có tham khảo các tài liệu lịch sử về chiến tranh VN, ta thấy ngay rằng phe VNDCCH (miền Bắc) và MTGPMN chủ trương chiến tranh VN là một cuộc “chiến tranh giải phóng”. Mỹ là “thực dân kiểu mới” và VNCH là “chính quyền ngụy, tay sai”. Nhưng trên phương diện “luật quốc tế”, họ vận động dư luận quốc tế để cho rằng chiến tranh VN là một cuộc “nội chiến” giữa hai bên VNCH và MTGPMN.
Ta thấy các hình ảnh, những khúc phim… của các phóng viên nước ngoài công bố trong thời gian chiến tranh, không ngoại lệ, chỉ là máu me, thương tích, chết chóc… của lính Mỹ và những người mà Mỹ cho là “Việt Cộng”, mà thực chất đó là những nông dân VN.
Áp lực của “dư luận” qua các cuộc biểu tình, các phong trào “phản chiến” tại các nước Tây phương như Pháp, Anh… hay tại chính quốc ở Washington, New York… lãnh đạo Mỹ bắt đầu từ TT Johnson, sau Mậu Thân 1968 nhìn nhận chiến tranh VN là một cuộc “nội chiến”.
Khi nhìn nhận chiến tranh VN là “nội chiến”, hai bên đối đầu là VNCH và MTGPMN, thì Mỹ không có danh nghĩa nào để can dự vào cuộc chiến.
Điều 51 Hiến chương LHQ về quyền “tự vệ chính đáng” chỉ có hiệu lực khi các bên VN là những “quốc gia”.
Nghị quyết của LHQ về Cao Ly chỉ có hiệu lực khi miền Bắc “xâm lược” miền Nam.
CSVN đã thành công, qua trận Mậu thân, vận động dư luận để biến một cuộc chiến “quốc tế” và “ý thức hệ” thành một cuộc “nội chiến”, trong nội bộ VNCH.
Đó mới là “kết quả ngoài dự kiến” của cuộc “tổng tấn công và nổi dậy”.
Sau trận Mậu thân 1968 Mỹ bắt đầu nhượng bộ trên phương diện ngoại giao, buộc VNCH phải “nhìn nhận” thực thể MTGPMN, buộc ngồi “ngang hàng” với thực thể này trong “bàn tròn bốn bên” ở Paris. Hiệp định Paris 1973 ra đời trong bối cảnh “nội chiến”, để Mỹ “Việt nam hóa chiến tranh”, chuẩn bị cho “đồng minh tháo chạy”.
Bây giờ nhìn lại, quan điểm của Mỹ, cái gọi là MTGPMN chỉ là một “cánh tay nối dài” của miền Bắc. Tổ chức này được thành lập theo một nghị quyết của đảng Lao Động (tiền thân của đảng cộng sản) năm 1960. Nhân sự chỉ huy tổ chức này đều là cán bộ đảng Lao Động. Tất cả các chiến binh, quân “nằm vùng” ở miền Nam, hoặc được đưa trực tiếp từ miền Bắc, hoặc được miền Bắc huấn luyện.
Tức là Mỹ (và VNCH) thua trên mặt trận truyền thông tại Paris, tại Washington, chớ không hề thua ở chiến trường, hay thua về lý lẽ tham chiến (jus in bello).
Vì vậy ý kiến của ông Vũ Cao Phan, khi phản đối bản chất “nội chiến” của cuộc chiến, là “có vấn đề”.
Điều tức cười là ông Vũ Cao Phan cũng phản đối bản chất “ý thức hệ” của cuộc chiến. Ông cho rằng “Ý thức hệ ấy chỉ là người bạn đường ngẫu nhiên của lịch sử mà thôi, mọi sự gán vào đều khiên cưỡng.”
Không có sự “ngẩu nhiên” nào kéo dài (bằng tuổi đời của đảng CSVN).
Ông Lê Duẩn đã từng nói “đánh Mỹ là ta đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc”. Đến bây giờ hiến pháp VN vẫn còn khẳng định chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Phú Trọng mới đây còn khẳng định “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ý thức hệ vẫn còn “gắn liền” với vận mạng đất nước và dân tộc VN.
Đây là một nhận định chủ quan, thể hiện sự mâu thuẩn nội tại khá “trầm trọng” của ông Vũ Cao Phan.
Còn bài viết của ông Nguyễn Gia Kiểng, rõ ràng tác giả viết bằng “thành kiến” chớ không viết bằng ngòi bút (bàn phím) của một trí thức chân chánh.
Sự mâu thuẩn của tác giả Nguyễn Gia Kiểng thể hiện trong bài viết.
Dẫn những số liệu của tác giả, về thiệt hại các bên trong cuộc chiến Mậu Thân 1968:
Dẫn: “Thiệt hại về phía Việt Nam Cộng Hòa trong trận đánh vào vào dịp Tết là gần 5.000 người (con số chính xác là 4.954) và gần 16.000 người bị thương. Phía quân đội Mỹ có 3.895 người thiệt mạng và khoảng 19.000 người bị thương.”
Thiệt hại phía cộng sản: Dẫn “lực lượng cộng sản vào thời điểm Tết Mậu Thân là trên 500.000 người. Một tài liệu của cơ quan tình báo CIA Mỹ ước lượng tổng số quân cộng sản lúc đó là khoảng 600.000 người. Cuối năm 1968 lực lượng này sau những thương vong và hồi chính chỉ còn lại khoảng 200.000 với hàng ngũ rã rượi và tinh thần suy sụp.”
Mặc dầu phía VC đã giành được yếu tố “bất ngờ”, do vi phạm thỏa thuận “ngưng chiến để ăn tết”. Phía VC còn được thế thượng phong do vũ khí tối tân hơn, gồm AK47 và B41, trong khi lính VNCH vẫn còn xài những khẩu “carbine” và “garant” cũ kỹ “bắn từng viên” còn lại từ Thế chiến thứ II.
Ngay cả tác giả cũng phải nhìn nhận trận Mậu Thân là một chiến thắng của VNCH và Mỹ. Dầu không nói ra, tác giả có vẻ nhìn nhận tinh thần chiến đấu của lính VNCH và Mỹ cao hơn chiến binh VC.
Tức là từ binh lính, các cấp chỉ huy, cấp lãnh đạo của VNCH đã hoàn tất nhiệm vụ của họ một cách “vẻ vang”, là “đẩy lui và tiêu diệt kẻ địch”, đem lại chiến thắng cho đất nước. Thiệt hại của VNCH và Mỹ là “không đáng kể”, nếu tính phía VC mất 2/3 quân số (từ 600.000 quân chỉ còn lại 200.000 quân).
Hãy đọc đoạn sau đây của tác giả Nguyễn Gia Kiểng:
Dẫn: “Trong lịch sử cận đại không có trận chiến nào diễn ra một cách kỳ cục như vậy. Càng khó tưởng tượng khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là một chính quyền quân đội đặt an ninh lên trên hết và có đầy đủ phương tiện truyền thông hiện đại. Nếu có một chút danh dự của một người làm tướng thì cả Thiệu lẫn Kỳ đều phải tự xử sau sự kiện ô nhục này, nhưng họ chỉ biết tự mãn chứ không có danh dự. Các cấp lãnh đạo và tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hòa cũng không khác họ bao nhiêu, không thấy ai tỏ ra xấu hổ. Không phải là phe cộng sản đã hành quân khéo và giữ bí mật giỏi, họ hành quân rất luộm thuộm, sai cả giờ phát động vì lẫn lộn lịch tầu và lịch ta. Vấn đề chỉ là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó quá tồi dở. Bộ máy hành chính cũng như quân sự có nhiều người rất tốt, rất dũng cảm và rất giỏi nhưng lãnh đạo quá tồi nên cũng giống như cơ thể cường tráng nhưng cái đầu không hoạt động.”
Rõ ràng tác giả viết do “thành kiến”.
Nếu chính quyền VNCH thời đó “quá tồi dở” thì giải thích làm sao họ chiến thắng trận Mậu Thân 1968 ? VC, vũ trang bằng vũ khí tối tân, AK54, B41 với xe tăng T54 yểm trợ, đồng loạt đánh bất ngờ vào trên 100 tỉnh lỵ, thành phố… của VNCH.
Trước sự phản công tài tình của quân lực VNCH, VC không chiếm được một địa phương nào. Ngoại trừ Huế, VC chiếm được 2 tháng.
Có thể “Nguyễn Cao Kỳ, mầu mè và phô trương”, “Nguyễn Văn Thiệu, mờ nhạt và thiển cận” đúng như nhận định của tác giả. Nhưng làm sao tác giả có thể phủ nhận việc chính hai người này đã dẫn dắt VNCH đem lại chiến thắng năm Mậu Thân.
Tức là trên phương diện “quân sự” họ đã hoàn thành nhiệm vụ của họ.
Tại sao họ phải “tự xử” ? tại sao một chiến thắng lại trở thành “sự kiện ô nhục” ?
Tác giả là một công chức cao cấp trong chính quyền VNCH, tương đương hàm thứ trưởng.
Các tướng lãnh đã làm tròn nhiệm vụ “nhà binh” của họ, là đem lại chiến thắng trên phương diện quân sự. Tác giả đã làm gì trong vai trò “đầu não”, trên địa bàn “chính trị” của mình ?
Tác giả đã “sổ toẹt” vào di sản của VNCH. Điều này không ai chấp nhứt. Nhưng tác giả, qua thành kiến cá nhân đã bóp méo sự thật lịch sử. Biến một chiến thắng, sự can trường và tài ba của chiến binh VNCH, trở thành một “sự kiện ô nhục”, là điều khó có thể chấp nhận.
Tác giả nhận định về cuộc chiến Mậu Thân như sau:
“Nếu những người cầm đầu chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm Mậu Thân không quá tồi, nếu Westmoreland không kém như vậy, nếu Lyndon Johnson không hoảng hốt. Chỉ cần một trong ba lý do đó vắng mặt thì hậu quả của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã khác hẳn và lịch sử Việt Nam cũng sẽ khác hẳn.”
Bỏ qua hai yếu tố “ngoại tại” là TT Johnson và tướng Westmoreland. Nếu những lãnh đạo VNCH thời đó “khá hơn”, tầm cỡ của tác giả Nguyễn Gia Kiểng bây giờ. Thì hậu quả trận Mậu thân 1968 có “khác hơn” không ? Lịch sử VN có “khác hơn” không ?
Không ai đặt lại “chữ nếu” trong lịch sử. Nhưng nếu có theo dõi diễn biến cuộc chiến VN, với những lý do tham chiến của các bên. Tôi cho rằng kết cục cuộc chiến cũng sẽ không khác.
VNCH cũng như Mỹ thua CSVN, không phải vì chiến đấu dở, mà vì thua ở mặt trận truyền thông. Thua ở Paris, ở Washington.
Bởi vì, như đã nói, chưa có cuộc chiến tranh nào xảy ra như cuộc chiến VN, phía báo chí là “một bên” của cuộc chiến, như là “nhân chứng”. Vấn đề là họ làm “nhân chứng” cho phía CSVN. Ta thấy các phóng viên đặt trụ sở ở Sài gòn, hình ảnh thu lượm ở các chiến trường do các phóng viên “đu càng trực thăng” theo lính Mỹ hay lính VNCH. Tất cả hình ảnh, bài viết đầy máu me chết chóc do báo chí đưa ra trở thành những cây dao “đâm sau lưng” Mỹ và VNCH. Họ đặt đủ thứ vấn đề của VNCH, từ việc hạn chế dân chủ, đàn áp nhân quyền, đàn áp tôn giáo, sinh viên biểu tình v.v… Họ đặt câu hỏi cho nhân dân Mỹ: VNCH có xứng đáng để được Mỹ giúp nữa hay không ?
Ngay cả các tổ chức quốc tế, như hội Chữ thập đỏ. Họ thường xuyên “giám sát” các nhà tù VNCH, sau đó viết những báo cáo có hiệu lực “như viên thuốc độc”, lên diễn đàn LHQ.
Thời chiến tranh mà họ xem như “thời bình”. Đám “phản loạn” được “bao che”, vì đó là kho tàng để họ khai thác viết tin tức, báo cáo. Trong khi ở các nước khác, ngay ở thời điểm hòa bình hiện nay, mức độ tự do, mức độ “nhân quyền”, mức độ dân chủ… đều thua xa VNCH thời đó. Bây giờ có ai vào các nhà tù Thái Lan, Singapour, Mã Lai… để “giám sát” ở đó ? Trong khi nhà tù Phú quốc do CSVN giàn dựng lên bây giờ làm địa điểm du lịch, nếu lấy bằng chứng là hình ảnh của Tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế, so sánh ta thấy rõ ràng là sự bịa đặt.
Dư luận Mỹ chỉ nhìn “một phía” của cuộc chiến. Mà ở một cuộc chiến bình thường, các ký giả, phóng viên không có lý do để có mặt.
Mục tiêu của CSVN, nói là “giải phóng, thống nhứt dân tộc”, mà thực chất là nhuộm đỏ VN. Xã hội VN bây giờ bị “kềm kẹp”, bị “áp bức”, bị “bóc lột”... gấp trăm, ngàn lần thời VNCH. Không có tổ chức quốc tế, nhà báo, phóng viên nào “đặt trụ sở ở Continental” như thời VNCH nữa. Vì họ đã bị CSVN “tống khứ” từ lâu.
VNCH bị đưa vào thế “phải thua”. Ngay cả ông Kiểng lãnh đạo VNCH thời đó, tôi dám chắc ông cũng không làm được cái gì để thay đổi. Nhưng vấn đề Mậu Thân có thể thay đổi. Một chiến thắng có thể thành thất bại. Vì người lãnh đạo không “rành” chuyện mình làm.

NHÂN DÂN CHỈ LÀ CÔNG CỤ CỦA QUYỀN LỰC.

Sau cuộc thảm sát Mậu Thân 1968 có thể nhận thấy là "nhân dân" dù ở bất cứ bên nào cũng chỉ là công cụ để cộng sản bước lên đài vinh quang.
Chúng nắm quyền lực bằng cách lót xác người lính và người dân. Chúng giành hết phần ngon và giao những khúc xương cho dân gặm.
Đáng buồn là dân tộc này vẫn còn quá mê muội. Mê muội nhất là bọn "bò đỏ". Bọn này đầy rẫy trong youtube, trong những clip của những tên CS trá hình ,lừa dối. Đọc những comment của chúng phỉ báng quân lực VNCH, phỉ báng NVHN gọi họ là ba que... tự nhiên không còn cảm thấy giận mà chỉ thấy thương hại và pha một chút khinh bỉ...
Không biết chúng sẽ cảm thấy gì khi đọc bài thơ này của Chế Lan Viên. Kẻ trước đây vẫn cho chúng uống nước đường?Nếu không nhận ra những điều đích thực trước khi quá muộn thì tương lai chúng sẽ là những con vật đầu tiên mà bè lũ Bắc Kinh chọn để thảm sát.
TRỪ ĐI.
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ.
Tôi giết cái cánh sắp bay... trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời trên biển,
Giết mưa và giết luôn cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh.
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình!

SO SÁNH

Ngày hôm qua 14/2 , 30 tết của Việt Nam một học sinh Mỹ bị nhà trường kỷ luật đã quay lại xả súng ở một trường trung học Mỹ khiến 17 học sinh chết.
Báo chí Việt Nam thấy không còn gì tốt hơn để nhảy vào đánh hôi bằng cách giật tít : Bắn giết điên loạn ở trường học Mỹ.
http://vietnamnet.vn/…/ban-giet-dien-loan-tai-truong-hoc-my…
khiến bọn "bò đỏ" được dịp sung sướng reo hò , tấn công nước Mỹ tới tấp và ca ngợi sự bình yên của quốc gia mà chúng đang sống.
Nhưng chúng không hề biết rằng tên sát thủ ra tay được là do bảo vệ nhà trường đã quên chú ý cái túi xách mà tên này mang theo trên người. Vì vậy thảm án này nằm trong câu nói nổi tiếng của người Mỹ " Tự do không hề miễn phí".
Để có tự do người Mỹ cần có 3 thứ:" Súng, bồi thẩm đoàn và lá phiếu".
Chính vì súng nên mỗi năm nước Mỹ có khoảng 30.000 chết vì bạo động https://www.voatiengviet.com/a/ba-muoi-nghin-n…/3388933.html
khoảng 750 cảnh sát hy sinh vì súng khi làm nhiệm vụ.
Nhưng đổi lại nước Mỹ được gì ?
- Không có 3 triệu dân oan như Việt Nam .https://www.facebook.com/danoan2016/
bởi lẻ mỗi khi chính quyền cướp đất dân đã có súng và hiến pháp cho phép để xử ngay kẻ cướp.
- Không có 205 người mỗi ngày chết vì ung thư vì dân có súng nên chính quyền không thể chôn rác thải công nghiệp bừa bãi gây ung thư cho họ.
http://vietnamnet.vn/…/moi-ngay-viet-nam-co-205-nguoi-chet-…
Mỹ cũng có người chết vì ung thư nhưng tỷ lệ rất thấp trong khi Việt Nam cao nhất thế giới.
- Không có người chết vì tự tử trong đồn công an, vì cướp bóc như trường hợp Lê Văn Luyện. Bởi mò vào nhà dân là súng tự động nổ.
- Tỷ lệ người chết vì tai nạn giao thông sẽ giảm rất thấp vì nhờ có súng nên không có độc tài. Chính quyền sẽ phục vụ dân để xã hội, đường phố trật tự từ đó ít người chết vì TNGT.
- Cũng nhờ có súng nên dân Mỹ không lo những hiểm họa rình rập khác như chính quyền sẽ bán nước cho ngoại bang,dâng biển đảo, không bị đầu độc bởi thực phẩm bẩn, không bị chết vì thủy điện xả lũ, Formosa thả độc,không bị bắt lên bàn mổ để giết sống lấy nội tạng...
Nhưng tất cả những cái đó bọn bò đỏ không thèm biết và cũng không cần biết, chúng chỉ cần nước Mỹ có nổ súng , có người chết là vỗ tay reo vui rồi.
Ấy thế nhưng chúng không thấy một nghịch lý là hàng đoàn người Việt Nam vẫn xếp hàng dài ở đại sứ quán và lãnh sự quán Mỹ ở Việt Nam để xin nhập cảnh vào nơi bắn giết điên loạn này.Chúng đánh Mỹ, chửi Mỹ nhưng lại đổ tiền sang Mỹ để mua nhà mua đất , mua tiệm nails, nhà hàng để đổ sang nơi có văn hóa súng đạn để sống ? Như vậy chúng mới là ngu khi nói một đằng làm một nẻo.
https://www.nguoi-viet.com/…/nguoi-giau-o-viet-nam-om-tien…/
Nói tóm lại : nước Mỹ phải trả giá cho tu chính án số 2 "quyền sử dụng súng" . Và chính nhờ quyền này nên người dân khắp thế giới mới đổ đến Mỹ để sinh sống như vậy.

TẠI SAO VNCH HAY DÙNG KHÁI NIỆM "TRỞ VỀ VỚI CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA" ?

"Quốc gia" hay "dân tộc" chỉ là một. Nhưng tại sao VNCH chỉ nêu ra khái niệm "quốc gia" mà ít khi nhắc đến "trở về với chính nghĩa dân tộc". Bởi lẻ quốc gia bao hàm cả thể chế chính trị trong đó, dân tộc là một truyền thống , một hành trình dài.
Tuy nhiên "chủ nghĩa dân tộc" là một thứ thuốc phiện, là chiêu bài của các chế độ độc tài dùng để kích động nhân dân làm công cụ để phục vụ cho mình. Không ai kích động nhân dân giỏi hơn các chế độ độc tài khi dùng hình ảnh thần tượng của cá nhân và công lao của một đảng phái để mị dân nhằm tạo ra sự đoàn kết.
Dân tộc Đức là một dân tộc rất lý trí nhưng cũng phải gục ngã khi Hitler dùng bộ máy truyền thông đề cao chủ nghĩa dân tộc nước lớn để rồi gây ra thảm sát hàng triệu người Do Thái.
Chủ nghĩa cộng sản thảm sát 100 triệu người dân thế giới nguồn gốc sâu xa cũng bắt nguồn từ "chủ nghĩa dân tộc" bởi rất ít người hiểu "chủ nghĩa cộng sản " là gì. Chỉ có sự phân biệt dân tộc mới khiến họ trở nên hăng máu và mù quáng như một tín đồ của một tôn giáo .
Chủ nghĩa dân tộc là nguyên nhân chính gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Và cũng là nguyên nhân chính khiến lịch sử Việt Nam trong 2000 năm sau công nguyên đều trải qua chiến tranh hơn là hòa bình, đồng thời cũng khiến họ hy sinh đến hơn 2 triệu người một cách vô ích qua 3 cuộc chiến có thể tránh được.
Lòng ái quốc rất đáng khuyến khích nhưng phải được đặt đúng chỗ. Khi đất nước chưa có quyền bỏ phiếu, chưa có đối lập hợp pháp, tam quyền phân lập, quyền con người ...thì anh không phải "ái quốc" mà "ái đảng chính trị cầm quyền", anh hy sinh xương máu không phải cho tổ quốc mà cho đảng chính trị đang ngồi trên đầu anh khiến chúng "vinh thân phì gia".
VNCH sở dĩ dùng chữ "chính nghĩa quốc gia" là vì không muốn theo gương cộng sản kích động tinh thần dân tộc để hai bên lao vào bắn giết nhau điên cuồng để rồi đất nước điêu tàn. Chính các nhà thơ của cộng sản lúc cuối đời như Chế Lan Viên cũng đã nhận ra sai lầm này. Ông chỉ là công cụ của tuyên giáo dùng "chủ nghĩa dân tộc" kích thích 2000 ngàn người cộng sản xuống đồng bằng trong Tết Mậu Thân 1968 để thảm sát đồng bào mình và thảm sát chính họ. Rốt cuộc "chủ nghĩa dân tộc" mà ông ca ngợi đến bây giờ chỉ là một con số 0 to tướng.
Chúng ta không thể so sánh với tinh thần dân tộc của người Do Thái khi họ đã có trong tay nền dân chủ và các thể chế chính trị lý tính thuộc về dân. Do đó cuộc đấu tranh của họ với thế giới Ả Rập luôn luôn chính nghĩa.
Riêng với Việt Nam trong cuộc chiến 17/2/1979 mà nhiều người tưởng lầm là cuộc chiến bảo vệ đất nước thật ra cả hai bên đều lợi dụng "chủ nghĩa dân tộc" để dạy nhau một bài học. Dân Việt Nam chỉ như những con thiêu thân tưởng rằng bảo vệ đất nước thật ra là hy sinh cho đảng CSVN
Vì vậy nhà đấu tranh dân chủ Trung Quốc Ngụy Kinh Sinh đã nói rất chí lý rằng " Khi cần CSVN có thể đánh nhau với Trung Quốc, dù thất bại trong cuộc chiến này họ vẫn giành được một thắng lợi rất lớn đó là củng cố tính chính danh của chính quyền trong mắt người dân".
Nếu không quan tâm giành lại quyền tự quyết trước người dân Việt Nam cũng sẽ đi vào vết xe đổ của lịch sử mà thôi.

CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ VUA ĐỔ THỪA.

- 1/ Đổ thừa lần thứ nhất : hiệp ước sơ bộ 6/3/1946.
Hiệp Ước Sơ Bộ(HƯSB) 6/3/1946 được ký giữa Hồ Chí Minh (HCM) và đại diện Pháp Jean Sainteny tại Hà Nội. Trong lúc này chính phủ lâm thời ở nước Pháp do Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản lãnh đạo. HCM và Pháp đã có những thỏa thuận qua lại từ tháng 2/1946, trên nguyên tắc Hồ đã chấp nhận tất cả những gì nước Pháp mẹ đề ra, và kết quả của sự thỏa thuận này là HƯSB.
Căn bản trong HƯSB:
-Nước Pháp công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một nước tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chánh nằm trong liên bang Đông Dương và khối Liên Hiệp Pháp.
Nước Pháp cam đoan sẽ thừa nhận kết quả của cuộc trưng cầu ý dân về việc thống nhất ba kỳ.
-Chính phủ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chấp thuận để 15 ngàn quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay quân Tưởng và sẽ rút hết sau 5 năm, quân đội của chính phủ HCM gồm 10 ngàn quân chịu sự chỉ huy của Pháp.
Hai bên đình chỉ ngay xung đột và đàm phán tiếp.
Như vậy chính Hồ Chí Minh ký hiệp ước sơ bộ để đưa 15.000 quân Pháp vào nhằm để quân Tưởng rút ra vì quân Tưởng ủng hộ hai đảng phái đối lập với đảng cộng sản là Việt Quốc và Việt Cách. Khi quân Tưởng rút đi rồi thì sai Võ Nguyên Giáp tiêu diệt hai đảng phái đối lập trong vụ án Ôn Như Hầu. Như vậy chính Hồ Chí Minh rước quân Pháp vào sau đó lu loa lên rằng quân Pháp xâm lược. Trong khi đó quân đội Pháp lúc này là của một chính phủ Pháp tự do được hình thành sau khi quân đồng minh chiến thắng phát xít.
2/ Đổ thừa thứ hai :
Sau hiệp định Giơ ne vơ cộng sản đã chuẩn bị lực lượng, gài người ở lại miền Nam để chiếm miền Nam. Lúc này miền Nam chỉ có chính phủ "Quốc gia Việt Nam" và sau này là Việt Nam Cộng hòa. Không có người Mỹ. Nhưng chính phủ của CS miền Nam đã thành lập vào năm 1960 để đánh miền Nam mà chính phủ này là Lê Duẫn, Lê Đức Thọ sau này giữ thành phần chủ chốt trong BCT của CS miền Bắc. Quốc gia Việt nam là quốc gia có chủ quyền được 90 nước công nhận. Như vậy cộng sản mới đích thị là kẻ xâm lược nhưng chúng lại quay sang đổ thừa cho Mỹ. Khi quân đội Mỹ vào sau và giúp VNCH chống xâm lược chứ không hề cướp một tấc đất nào của Việt Nam. Chính cộng sản mới cướp đất miền Nam theo lệnh cộng sản quốc tế.
3/ Đổ thừa thứ ba: Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam vốn cùng một ý thức hệ. Sau chiến tranh 1954-1975 quay sang đánh nhau vì mâu thuẫn nội bộ để dạy cho nhau một bài học. Nhưng để khiến dân Việt Nam chết thay cho chúng không gì tốt hơn là đổ thừa cho Trung Quốc xâm lược. Trong khi đó nếu thực sự xâm lược Đặng Tiểu Bình đã xua quân xuống chiếm ngay Hà Nội vì quân Trung Quốc đông vô kể, bắn chết lớp này sẽ có ngay lớp khác. Nếu Đặng Tiểu Bình xâm lược hóa ra đảng CSVN bây giờ lại đang viết sách ca ngợi Đặng Tiểu Bình bằng đủ thứ "thiên tài" có thể lý giải với nhân dân như thế nào ? Đảng đang ca ngợi kẻ xâm lược ?
Trong khi hiện tại bây giờ Trung Quốc đang xâm lược mềm thì chẳng hề đá động đến.
Như vậy có thể kết luận : cộng sản Việt Nam chỉ lợi dụng "chủ nghĩa dân tộc" để xúi dân Việt Nam chết thế. Không gì tốt hơn , để dân Việt Nam tin hơn là đổ thừa cho chúng "xâm lược".

KHÔNG QUAN TÂM TỚI CHÍNH TRỊ CHÍNH LÀ NGUYÊN NHÂN LỚN NHẤT DẪN ĐẾN MỘT NƯỚC VIỆT NHƯ HÔM NAY.

Đối với người Việt Nam căn bệnh lớn nhất chính là căn bệnh bàng quan với chính trị. Không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài, không chỉ ngày nay mà cả ngày xưa.
Tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên của VNCH năm 1967 chỉ có 4,7 triệu người đi bỏ phiếu trên 14 triệu dân.Bầu cử ở nước Mỹ tỷ lệ người Mỹ đi bầu là 53%. Trong khi người Do Thái có 7 triệu dân sống ở Mỹ tỷ lệ đi bầu là 90% tức khoảng 6,3 triệu cử tri thì NVHN sống tại Mỹ đi bầu chỉ vào khoảng 30%.Chỉ tập trung ở các vùng, tiểu bang mà NVHN sống quây quần cùng nhau. Những người nào sống rải rác thì không thèm đi bầu.
Trên thế giới các quốc gia nào càng có nhiều người dân đi bầu cử thì GDP đầu người càng cao. Tất nhiên ngoại trừ các quốc gia độc tài như Việt Nam dù có 100% dân đi bầu nhưng vẫn ở dưới đáy vì bầu cử ở Việt Nam là chỉ bầu cho vui.
Các quốc gia nói chuyện chính trị nhiều đều là các quốc gia giàu có. Chính trị từ trên truyền hình, giảng đường lan ra các quán cà phê, quán nhậu. Chính trị từ người lớn đến trẻ em.Bà thủ tướng Do Thái từng nói nước tôi có đến 6,5 triệu thủ tướng. Nghĩa là bất cứ người Israel nào cũng có thể làm thủ tướng được và bất cứ người nào cũng có thể phê bình các chính sách của chính phủ một cách vanh vách.
Ngay tại nước Mỹ cộng đồng nào có tỷ lệ bầu cử cao nhất đều là các cộng đồng văn minh nhất và được chính quyền nể trọng nhất. Các cộng đồng không quan tâm đến chính trị như cộng đồng người Việt lại là những cộng đồng chịu thiệt thòi nhất về phúc lợi xã hội, chăm sóc y tế, về văn hóa giáo dục...
Chính vì không nói chuyện chính trị nên trí thức Việt luôn bị chính quyền đè đầu, dân Việt bị "xén lông cừu", máu Việt đổ ra trong 3 cuộc chiến tranh như nước lã. Cũng chính vì coi chính trị là điều tối kỵ nên hiện tại Việt Nam có nguy cơ bị diệt chủng.Không những không dám nói, dân Việt còn không dám làm chính trị. Họ coi đó là trách nhiệm của ai đó chứ không phải của mình. Và chỉ biết làm sao kiếm cho được nhiều tiền. Nhưng tiền nhiều cũng vô ích nếu một ngày nào đó họ nhận cái giấy báo tử từ bệnh viện vì cái tội không dám nói, dám làm chính trị ngay cả trên bàn nhậu.
Cộng đồng NVHN tại Mỹ cũng thế . Nếu họ không thay đổi suy nghĩ để tham gia vào việc quản lý đất nước nơi họ đang sống thì dù có định cư ở Mỹ 100 năm hay một ngàn năm họ vẫn là một cộng đồng nhỏ bé, không có tiếng nói đáng kể nào với hàng chục sắc dân khác.
Chính vì không có ý thức sử dụng lá phiếu nên hiện tại họ đang có nguy cơ bị cộng sản đánh úp. Chúng đang tấn công NVHN bằng các đài truyền thông bằng internet, youtube. Chúng đang nói với người dân trong nước rằng cộng đồng NVHN đang một lòng hướng về "tổ quốc", đang hát ca ngợi bác, ca ngợi đảng, đang nhiệt tình gởi tiền về giúp chính quyền, quê hương... Và NVHN đang bó tay không biết làm sao để làm tắt những cái đài đó. Nếu như với cộng đồng Do Thái họ chỉ cần nói với dân biểu đại diện cho họ thì quốc hội Mỹ sẽ có luật và ngay cả tổng thống Mỹ cũng sẽ có những sắc lệnh hành pháp để bảo vệ họ . Và bọn độc tài sẽ không thể nói xấu họ trắng trợn như thế.
Chung quy mọi chuyện cũng từ cái đầu mà ra. Người trong nước bị giam tù trong một ý thức hệ củ kỷ, lạc hậu đã đành. Người ngoài nước cũng chỉ quanh quẩn với căn nhà của mình giá bao nhiêu, tiệm nails hôm nay làm được bao nhiêu khách, hôm nay cắt cỏ được bao nhiêu nhà. Các hội đoàn tổ chức đại nhạc hội có dính dáng đến chính trị là trốn biệt vì sợ cộng sản nằm vùng chộp được hình không cấp visa cho để về nước....
Chỉ đến khi nào cộng sản tràn sang khắp các tiểu bang nước Mỹ và biến họ thành Vịt Kiều yêu nước hết thì lúc đó họ mới tỉnh ra. Một dân tộc không nói chính trị ,không làm chính trị là một dân tộc bỏ đi.

MẬU THÂN 1968 CÓ NHỮNG ĐIỀU BẠN CHƯA BIẾT.

Có một số nhận định của nhóm "Tập hợp dân chủ đa nguyên" cho rằng trách nhiệm để xảy ra trận Mậu Thân 1968 là của chính quyền ông Nguyễn Văn Thiệu.Họ cho rằng chính quyền ông Thiệu quá tồi và dở khi không phòng bị và phát hiện sớm để cộng sản đánh lén vào dịp Tết.
Theo tôi đây là một nhận định chủ quan và chưa xét đến tính tất yếu của lịch sử.
Để khách quan hơn ta phải xét đến một trận đánh lén khác tương đương trong lịch sử chiến tranh hiện đại : "Trận Trân Châu Cảng".
Trận tấn công Trân Châu Cảng (hay Chiến dịch Hawaii theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một đòn tấn công quân sự bất ngờ được Hải quân Nhật Bản thực hiện nhằm vào căn cứ hải quân của Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng thuộc tiểu bang Hawaii vào sáng Chủ Nhật, ngày 7 tháng 12 năm 1941,
Tòa Đại sứ Nhật Bản ở Washington đã được chỉ thị phải chuyển giao thông điệp này ngay trước thời điểm trù định cho cuộc tấn công ở Hawaii. Cuộc tấn công, và đặc biệt là bản chất "bất ngờ" của nó, là hai nhân tố khiến cho công chúng Hoa Kỳ thay đổi quan điểm từ những người theo chủ nghĩa biệt lập (Isolationism) như vào những năm giữa thập niên 1930 sang ủng hộ việc Hoa Kỳ tham chiến. Nhật Bản đã không đưa ra một lời tuyên chiến chính thức nào trước khi thình lình tấn công Trân Châu Cảng, trong khi hai quốc gia Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn còn đang trong giai đoạn đàm phán hoà bình, vì thế cuộc tấn công bất ngờ này bị dư luận quốc tế xem là đánh lén (sneak attack), và Tổng thống Franklin D. Roosevelt tuyên bố rằng ngày 7 tháng 12 năm 1941 "sẽ sống mãi trong sự ô nhục" ("A date which will live in infamy").
Trong chiến tranh sở dĩ thế giới yêu cầu phải thực hiện chiến tranh theo quy ước là để giảm thiểu việc thảm sát dân thường. Việc tuân thủ các hiệp định và các quy ước sắc phục , màu áo là để nhằm tránh việc lợi dụng dân làm vật chết thế.Tất nhiên do sự vô nhân đạo nhằm vào mục đích đạt đến chiến thắng bằng mọi giá nhiều kẻ đã ươn hèn bất chấp các lệnh ngừng bắn, bất chấp những giao ước, thỏa thuận đã ký, dùng dân chết thế để nhằm một mục đích duy nhất là thiết lập sự cai trị lên đầu dân. Ta gọi đây là sự ô nhục.
Những kẻ chỉ trích ông Thiệu tồi dở đã quên rằng cộng sản Việt Nam đang lặng lẻ vận chuyển vũ khí, ém quân vào miền nam để tổng tấn công và nổi dậy khi nhân dân miền Nam đang tiến hành tổng tuyển cử để thiết lập nền dân chủ sau bản hiến pháp 1967.
Khi đang tổng tuyển cử thì chính quyền ông Thiệu được cử lên vào năm 1965 bởi Hội đồng quân nhân cách mạng chỉ được xem như là một chính quyền quân quản. Nghĩa là lúc này VNCH rơi vào tình trạng không có quốc hội, tức không có cơ quan quyền lực cao nhất.
Sau cuộc đảo chính vào ngày 1/11/1963 được xem như là một cuộc cách mạng từ độc tài sang dân chủ vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam vì tiết kiệm nhiều máu xương nhất và có ý nghĩa nhất bởi bắt đầu một giai đoạn mà người dân có thể nắm quyền tự quyết vận mạng dân tộc bằng lá phiếu. Tuy nhiên đất nước phải trải qua một thời điểm giao thời, một cuộc chuyển giao quyền lực. Cũng như nhiều cuộc đảo chính khác như ở Thái Lan, Chi Lê, Thổ Nhĩ Kỳ hoặc như ở Liên Xô và Đông Âu, VNCH cũng phải mất một thời gian là 4 năm để đất nước rơi vào tay quân đội với nhiều cuộc đảo chính liên tục . Và từ 1965 đến 1967 khi lên nắm chức chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng ông Thiệu cũng chỉ lo nhiệm vụ chống đảo chính là chủ yếu. Và quân đội cũng đang sa sút tinh thần khi phải thay các tổng tư lệnh liên tục.
Từ khi tổng tuyển cử bầu ra một chính quyền dân chủ mới đến khi cộng sản tổng tấn công 1968 là chỉ 3 tháng( tháng 10/1967 đến tháng 2/1968). Trong thời gian này ông Thiệu khác với ông Diệm không được toàn quyền quyết định mà phải chịu nguyên tắc phân quyền , giám sát của tam quyền phân lập được quy định trong hiến pháp 1967. Do đó quyền ông Thiệu không phải là cao nhất mà quyền của quốc hội đa đảng mới đứng trên tất cả.
Chỉ đến nhiệm kỳ 2 từ 1971-1975, quốc hội VNCH mới ra "luật ủy quyền" để nới rộng quyền hành cho ông Thiệu khi cộng quân vượt sông Bến Hải để tiến đánh trong Mùa hè đỏ lửa 1972.
Với một chính quyền dân chủ chỉ hình thành sau 3 tháng nhưng đã chận đứng và giáng trả đích đáng một cuộc tấn công "đánh lén" của những kẻ "tử vì đạo" không khác gì các chiến binh Nhật Bản trong trận Trân Châu Cảng thì chính quyền non trẻ của VNCH rất đáng được biểu dương. Trong điều kiện bận tiến hành bầu cử và không phải chỉ đối phó với cộng sản mà còn thiết lập nền tảng của một chính quyền dân chủ về chính trị,kinh tế, văn hóa ,giáo dục. Đối phó với báo chí đối lập, các quan điểm đa chiều trong quốc hội và nguy cơ đảo chính từ quân đội phải nói rằng ông Thiệu đã làm được nhiều việc để phản công chiếm lại các thành phố bị mất và khiến cộng quân thiệt hại vô cùng nặng nề.
Cho nên để đánh giá bất kỳ nhà lãnh đạo quốc gia nào ta cũng phải đặt họ vào hoàn cảnh lịch sử, giới hạn quyền lực của họ và phải thấy rằng trong điều kiện rất nhiều kẻ "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản", trong điều kiện chấp nhận quyền tự do ngôn luận,không thần tượng hóa thì một lãnh đạo dân chủ làm được như thế là không đáng nhận sự chỉ trích.
Trong khi đó 43 năm qua dù CSVN đã tấn công ra hải ngoại một cách công khai,không hề đánh lén nhưng cộng đồng NVHN vẫn tỏ ra mất đoàn kết và chua có một tổ chức nào đủ sức để lãnh đạo đa số. Tất cả vẫn loay hoay không có một trận phản kích đáng kể nào như ông Thiệu đã làm sau 1968 và 1972. Họ chỉ giỏi công kích vị tổng thống dân chủ đầu tiên và duy nhất này trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà không hề nhìn nhận lại thành tích của chính mình.

ĐẦU TƯ CHO MỘT CON NGƯỜI VÀ ĐẦU TƯ CHO MỘT ĐẤT NƯỚC.

Một con người muốn kiếm được nhiều tiền để nuôi sống bản thân và gia đình phải có quá trình đầu tư. Một đất nước cũng thế.
Phụ nữ Việt Nam xuất thân từ các gia đình lao động,khi đến tuổi trưởng thành thường ít quan tâm đầu tư cho mình. Họ thường do mưu sinh nên phải chọn những công việc vất vả, nặng nhọc nhưng lại kiếm không được bao nhiêu tiền. Thế rồi lấy chồng, sinh con đẻ cái, quanh năm lam lũ và nhiều khi kết thúc cuộc đời mà chẳng bao giờ tận hưởng được ý nghĩa cuộc sống.
Họ không biết rằng khi làm công nhân trong một xưởng may,dệt nào đó họ chỉ nhận được một đồng lương rẻ mạt, khiêm tốn , bị bóc lột thậm tệ. Nhưng khi chăm chút cho nhan sắc , quần áo , vẻ bên ngoài và đầu tư đi học thêm ngoại ngữ, kiến thức chính trị, xã giao...họ đã nâng cao thương hiệu bản thân và kiếm được những đồng tiền gấp nhiều lần cái thời mà họ lam lũ , cày ải trong công xưởng. Lúc đó họ không còn cần phải chi tiêu chắt bóp từng đồng, mua cái gì cũng phải suy tính mà có thể mua sắm bất cứ cái gì mình thích không cần coi giá.
Một đất nước cũng thế mà thôi. Cái đầu tư lớn nhất đó là quyền làm chủ, quyền tự quyết của người dân. Sau đó là đầu tư đến giáo dục,kinh tế, quốc phòng, văn hóa...Khi một đất nước tạo dựng được các thương hiệu lớn có thể cạnh tranh toàn cầu thì dân không cần phải lao động nặng nhọc...chỉ cần bán thương hiệu cũng đủ tạo ra các phúc lợi xã hội để chăm lo cho dân về miếng ăn, về chăm sóc y tế...
Trên thế giới này không có một đất nước nào phát triển tự chủ mà không nhờ vào sự hy sinh của các thế hệ đi trước. Họ đã lao vào các cuộc đấu tranh dân chủ, nhân quyền... bị cầm tù, bị đánh đập tra tấn dã man, bị bỏ thây ở chiến trường...mới có sự tự do được thể hiện qua một bản hiến pháp hợp lý. Sau đó tiếp tục hy sinh để bảo vệ giá trị của bản hiến pháp đó.
Có nhiều người đi tắt ,phá nát đất nước mình rồi chạy sang các nước tự do để sống. Nhưng họ không hề biết là họ đang hưởng "xái" thành quả đấu tranh cho tự do của người bản xứ. Họ tưởng là mình khôn khi trốn tránh các trách nhiệm về thuế, về đi lính để bảo vệ tự do, tham gia vào lực lượng cảnh sát để bảo vệ luật pháp và hiến pháp... Và họ nghĩ rằng đâu cần tham gia vào chính trị, đâu cần tranh đấu ...chỉ cần khôn, biết lách, biết lợi dụng các khe hở của luật pháp là có thể làm giàu, sống sung sướng hết kiếp. Nhưng họ sẽ nhận được sự khinh bỉ của người bản xứ. Bởi cái gì cũng có cái gốc của nó. Anh không trồng cây thì phải tưới nước, chứ không dưng tự nhiên hưởng quả ngọt thì quá bất công.
Đất nước Việt Nam cộng sản hay kêu gọi phong trào "uống nước nhớ nguồn" đền đáp công ơn các liệt sĩ hy sinh vì tổ quốc... Nhưng thật ra đó là một sự đầu tư sai. Vì kết quả đầu tư đó chỉ đem lại tài sản và địa vị cho một bộ phận đặc quyền, đặc lợi chỉ sống vào tài lừa dân.
Khi biết đầu tư sai mà không bắt tay làm lại thì kết quả là anh sẽ không bao giờ có trái ngọt . Anh vẫn phải bán tài nguyên, bán sức lao động để ăn và chịu đủ mọi thứ bất công mà thể chế chính trị độc tài mang lại. Thế nên khi xã hội đã nát như tương rồi thì con người ta có tâm lý là thi nhau ngoi lên, đạp lên nhau để tồn tại, mạnh được yếu thua,khôn sống dại chết...
Kết quả là cho ra một thế hệ giết người không ghê tay,sống quay cuồng, sống gấp và tự hào vào những điều giả tạo.
Nếu không biết đầu tư hôm nay anh sẽ không có thu hoạch vào ngày mai. Đó là một quy luật.

TỪ BỎ TU CHÍNH ÁN THỨ HAI VỀ QUYỀN SỞ HỮU SÚNG LÀ TỰ SÁT.

Tu chính án số 2 trong Hiến pháp Mỹ ghi rõ: “Vì một lực lượng dân quân quy củ là cần thiết cho an ninh của một đất nước tự do, quyền của người dân được nắm giữ và mang vũ khí sẽ không thể bị xâm phạm".
Nếu hạn chế súng trường thì xảy ra những vụ cướp đất nông dân Mỹ sẽ không có vũ khí đủ để chống lại với các lực lượng vũ trang của chính quyền. Như vậy thế chân kiềng" súng, bồi thẩm đoàn và lá phiếu" để hình thành nên nền dân chủ Mỹ sẽ bị phá vỡ. Và như thế dân không chết vì súng mà vì các chính sách của một chính quyền độc tài sẽ nhiều hơn.
Tuy nhiên việc cấm bán các thiết bị để chuyển đổi từ súng trường sang bán tự động thì được. Hơn nữa súng trường dùng để săn bắn ,không lẻ đi săn bằng súng ngắn?Và súng trường cũng dùng để chống cướp vì cướp dẫu có cấm chúng vẫn mua được súng ngoài thị trường chợ đen.
Nói tóm lại là cần phải tăng cường biện pháp an ninh trường học bằng hệ thống camera, security và lên danh sách những kẻ có dấu hiệu tâm thần, những kẻ có vi phạm về súng để tịch thu và cấm bán vũ khí với họ.
Đối với người Mỹ, súng cũng giống như một chiếc xe hơi. Có khi xe là phương tiện chuyên chở nhưng cũng có khi là phương tiện giết người. Do đó người ta xét tỷ lệ người được cứu do súng nhiều hơn tỷ lệ bị chết bởi súng nên tu chính án số 2 vẫn đứng vững. Các vấn đề thảm sát được xét đến là do không phải vấn đề về súng mà do vấn đề về tâm thần và giáo dục cần có sự tham gia của các chuyên gia tâm lý.
Chỉ có điều là cộng sản hay lợi dụng các vụ thảm sát của nước Mỹ để đưa ra cái nhìn một chiều nhằm biện hộ cho việc cướp quyền phản kháng bằng vũ khí của người dân đồng thời lên án nước Mỹ.
Nhiều người Việt Nam ngày nay vẫn tin tưởng một cách ngây thơ rằng chính phủ kiểm soát không cho người dân sở hữu và sử dụng súng là để bảo vệ họ, là để bảo vệ xã hội khỏi bạo lực do việc sở hữu súng của những kẻ tội phạm. Sự thật có phải đúng là như vậy?
Trên thực tế khi bạn hay tôi đối mặt với bọn tội phạm, chúng ta ngay lập tức trở thành những người ở tuyến đầu phòng vệ. Lúc đó quá trễ để gọi sự trợ giúp của một ai đó. Những công dân tuân thủ luật pháp luôn là những người ở tuyến đầu đối mặt với tội phạm để bảo vệ bản thân và gia đình mình.
Trong khi đó, những chính trị gia lại nói với chúng ta rằng họ muốn bảo vệ chúng ta khỏi tội phạm có vũ trang bằng cách tước đi quyền sở hữu và sử dụng vũ khí của cá nhân để tự vệ. Đây là lời nói dối lớn nhất của tất cả bọn họ.
“Thế giới này tràn ngập bạo lực bởi vì bọn tội phạm có súng. Chúng ta, những công dân tử tế tuân thủ luật pháp, cũng nên có súng. Nếu không thì chúng sẽ thắng và những người tử tế sẽ thua” – James Earl Jones
Những cuộc tranh luận xung quanh vấn đề kiểm soát súng thường gắn liền với những cảm xúc mạnh mẽ của cả hai phía. Bên cạnh đó việc lạm dụng khai thác đề tài này đã ít nhiều tầm thường hoá vấn đề kiểm soát súng. Nó cực kỳ nguy hiểm vì quyền được trang bị vũ khí để tự bảo vệ không phải là vấn đề tầm phào. Và quyết định không nên được đưa ra dưới bất cứ áp lực của sự sợ hãi hay hoảng hốt nào.
Kiểm soát súng đi ngay vào trái tim của khái niện mà chúng tôi gọi là Tự do và do đó nó cần được xem xét một cách tổng thể và thận trọng.
Vậy kiểm soát súng chính xác là gì? Nó là kiểm soát dòng chảy của súng trong nước. Nhiều người suy nghĩ đơn giản hơn thì cho rằng kiểm soát súng là tịch thu súng của tất cả mọi người. Kiểm soát súng không hề có nghĩa là tịch thu súng. Điều này là không khả thi bởi vì các phần tử tội phạm trong xã hội sẽ không bao giờ giao nộp súng của chúng, lực lượng quân đội và cảnh sát cũng không.
Câu hỏi đầu tiên khi đó trở nên rõ ràng: Ai là người kiểm soát súng? Câu trả lời là chính phủ mà ở đây chúng ta sẽ gọi là những Người Làm Luật.
Câu hỏi tiếp theo chúng ta cần phải hỏi là: Súng của ai bị kiểm soát? Câu trả lời là nhân dân, những người đã giao nộp súng của họ. Họ là những công dân tuân thủ luật pháp mà chúng ta sẽ gọi là những Người Tuân Luật
Câu hỏi cuối cùng, súng của ai sẽ không bị kiểm soát? Chúng ta có thể giả thiết là bọn tội phạm sẽ không giao nộp súng của chúng và chúng ta sẽ gọi là những Người Phạm Luật
Và như vậy bạn đã có bức tranh tổng thể. Khi nói về kiểm soát súng, chúng ta dễ dàng phân chia xã hội thành ba nhóm có thể nhận diện dễ dàng: Người Làm Luật, Người Tuân Luật và Người Phạm Luật.
Có một sự tranh cãi dai dẳng rằng: Có thật kiểm soát súng, bằng cách nào đó, sẽ làm suy yếu nhóm Người Phạm Luật? Làm thế nào có thể như vậy được? Bạn có tin rằng những tên tội phạm sẽ giao nộp vũ khí của chúng trong khi chúng lại phụ thuộc vũ khí đó để thực hiện tội ác? Ngay cả khi có lệnh kiểm soát súng đi vào hiệu lực thì những vũ khí này vẫn đang lưu thông và những kẻ tội phạm vẫn đang sở hữu súng.
Thomass Jefferson nói về kiểm soát súng:
“Họ tước vũ khí chỉ của những ai không có chiều hướng hoặc đã xác định không phạm tội. Những luật như vầy chỉ làm tình hình trở nên tồi tệ hơn cho người bị tấn công và tốt hơn cho kẻ tấn công.”
Biện pháp kiểm soát súng cũng không chứng minh được đã tạo được rào cản đáng kể nào cho những kẻ tội phạm đang muốn sở hữu súng. Bất cứ ai với một số vật liệu đơn giản và có truy cập internet là đã có thể tìm thấy hướng dẫn cách và tự mình chế tạo súng. Trên thực tế điều sẽ xảy ra chỉ là súng sẽ được mua bán chợ đen. Hệ luỵ của nó là việc củng cố quyền lực của, hoặc sinh ra các tổ chức mafia nắm quyền kiểm soát việc kinh doanh này.
Như vậy, liệu luật kiểm soát súng có nên được áp dụng lên những công dân tuân thủ luật pháp như là biện pháp để bảo vệ họ, những công dân tuân thủ luật pháp, khỏi bọn tội phạm không để luật đó ràng buộc chúng?
Do nhóm tội phạm không bị ảnh hưởng bởi luật kiểm soát súng. Trên thực tế nhóm này là những ngưởi ủng hộ mạnh mẽ việc kiểm soát súng bởi vì nó giải trừ một cách hiệu quả vũ trang của những người mà chúng muốn làm hại.
Theo bản khảo sát Tội Phạm Quốc Gia Mỹ: “Nếu nạn nhân của vụ cướp không tự vệ, thì những kẻ cướp sẽ thành công trong 88% các trường hợp và nạn nhân sẽ bị thương trong 25% các trường hợp. Nếu nạn nhân chống cự lại với súng, tỷ lệ “thành công” của vụ cướp rơi xuống chỉ còn rơi xuống chỉ còn 30% và tỷ lệ nạn nhân bị thương giảm xuống còn 17%.”
Vậy cái gì là lợi ích của việc kiểm soát súng đối với những Người Tuân Luật. Phải chăng là sự giảm đi của tội phạm? Điều đó là không thể. Các số liệu thực tế từ các quốc gia gần đây ban hành luật kiểm soát súng chứng thực điều này. Hãy lấy ví dụ của Úc. Úc thiết lập kiểm soát súng năm 1996 và chính phủ đã thu giữ và tiêu huỷ 640, 381 vũ khí cá nhân, chương trình này cũng tiêu tốn của người đóng thuế Úc hơn 500,000 dollar và kết quả thu được sau 12 tháng là: tội phạm giết người tăng 32%. trên toàn nước Úc, các vụ tấn công tăng 86%.. Trên toàn nước Úc, các vụ cướp có vũ trang tăng 44%.
Chỉ riêng trong tiểu bang Victoria, tỷ lệ giết người có vũ trang tăng 300%. Cần lưu ý rằng trên thực tế trong khi những công dân tuân thủ luật pháp giao nộp súng, thì những kẻ tội phạm không, chúng vẫn sở hữu súng. Trong khi số liệu của 25 năm trước cho thấy tốc độ giảm đều đặn tỷ lệ cướp có vũ trang thì điều này đã thay đổi hoàn toàn sau 12 tháng thực thi luật kiểm soát súng tại đây, do giờ đây tội phạm được đảm bảo rằng các mục tiêu của chúng không được tự vệ.
Cảnh sát Úc đã thất bại trong việc giải thích tại sao an ninh công cộng lại giảm sút sau khi chính phủ đã tiêu tốn hàng đống tiền của và nhân lực cho chương trình quét sạch súng khỏi xã hội Úc. “Tự vệ không phải là lý do để sở hữu súng” – John Howard, Thủ tướng Úc, phát biểu. Và đó là một trong những lời nói dối vĩ đại của các chính trị gia.
Giả sử nếu chúng ta cũng tin vào luật kiểm soát súng, ai sẽ là người chúng ta sẽ trông cậy khi đó. Chỉ có một nhóm cuối cùng: Nhóm Làm Luật, hay là chính phủ. Chính phủ sử dụng các lực lượng công an, cảnh sát để bảo vệ chúng ta.
Chúng ta có một quyền được ban tặng bởi Tạo hoá là quyền tự bảo vệ bản thân. Từ đâu mà công an lấy quyền bảo vệ chúng ta? Thật vô nghĩa khi để cho công an bảo vệ mạng sống của chúng ta trong khi chúng ta là một cá nhân thì lại bị từ chối quyền đó.
“Khi cảnh sát nổ súng, thì việc họ bắn nhầm người vô tội gấp khoảng 55 lần hơn là thường dân bắn nhầm.” – David Kople
Những người Tuân Luật cần phải được sở hữu súng không chỉ để bảo vệ họ khỏi nhứng kẻ Phạm Luật mà quan trọng hơn khỏi những Người Làm Luật. Các nhà lập quốc Hoa Kỳ thậm chí đã đảm bảo quyền sở hữu súng của dân chúng bằng cách đưa nó vào ngay trong Hiến Pháp Mỹ. Tu chính án số 2 viết: “Quyền của mọi người được trang bị và giữ súng, sẽ không bị xâm pham.”
“Những dự định tốt sẽ luôn được dùng để biện hộ cho các giả thuyết của nhà cầm quyền. Hiến Pháp được xây dựng để bảo vệ chống lại sự nguy hiểm của các dự định tốt đó.” – Noah Webster
Đây là lý do tại sao bước đầu tiên diễn ra trong một xã hội độc tài là tịch thu vũ khí của tất cả người dân. Nhìn lại lịch sử số lượng người vô tội bị giết nhiều nhất không phải do những Kẻ Phạm Luật, mà luôn bởi những Người Làm Luật.
- Năm 1929, Liên bang Sô Viết thiết lập kiểm soát súng. Từ 1929 tới 1953, khoảng 20 triệu những người bất đồng chính kiến, không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
- Năm 1911 Thổ Nhĩ Kỳ thiết lập kiểm soát súng. Từ 1915 đến 1917, 15. triệu người Armenia, không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
- Đức quốc xã thiết lập kiểm soát súng năm 1938 và từ 1939 đến 1945, tổng cộng 13 triệu người Do Thái và người khác, không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
- Trung Quốc thiết lập kiểm soát súng năm 1935. Từ 1948 đến 1952, 20 triệu người bất đồng chính kiến, kkông thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
- Uganda thiết lập kiểm soát súng năm 1970. Từ 1971 đến 1979, 300,000 người theo đạo Thiên Chúa Giáo, không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
- Campuchia thiết lập kiểm soát súng năm 1956, từ 1975 đến 1977, 1 triệu “trí thức" , không thể tự vệ bản thân, đã bị xếp hàng và hành quyết.
Kiểm soát súng dựa trên một câu hỏi hết sức cơ bản: Bạn tin tưởng ai hơn: chính phủ hay người dân?
“Trong số nhiều hành động sai trái dưới sự cai trị của Anh Quốc tại Ấn độ, lịch sử sẽ nhìn vào luật tước đi vũ khí của người dân trên toàn quốc như là một trong những luật đen tối nhất.” – Mohandas K Gandhi
Nhưng hãy quên tất cả lý thuyết và quên tất cả con số thống kê, bởi vì kiểm soát súng thực sự không phải là về kiểm soát súng, mà là một thứ lớn hơn rất nhiều. Đó là về kiểm soát quyền, nó là về quyền của mỗi chúng ta để bảo vệ tính mạng, tài sản của bản thân và gia đình khi bị đe doạ. Nó là về việc một người sở hữu súng không có nghĩa anh ta là tội phạm hay có tội. Và trên hết thảy nó là về TỰ DO.
“ Giải giáp nhân dân là cách hiệu quả nhất để nô lệ hoá họ.” – George Mason (Phỏng theo Ron Ownby Frisco)
Tại Việt Nam vụ án Lê Văn Luyện giết người cướp tiệm vàng đã có thể có kết cục không bi thảm đến thế nếu gia đình người chủ tiệm vàng được phép sở hữu và sử dụng súng để tự bảo vệ mình. Rõ ràng tên cướp khoẻ mạnh sẽ bất lợi hơn khi đối mặt với hai vợ chồng già nhưng có súng để tự vệ. Hãy hỏi những người chủ tiệm vàng rằng họ có muốn mọi người được phép sở hữu súng hay không?
Một ví dụ khác, nếu những người nông dân được phép sở hữu và sử dụng súng để bảo vệ mảnh đất của mình, có thể sự việc đã không tồi tệ đến thế khi ông Vươn dùng súng chống trả lại lực lượng cưỡng chế ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Những ông chủ tịch Huyện sẽ phải làm việc tôn trọng pháp luật hơn, sẽ phải nghiệm túc đàm phám với người dân, hơn là có thiên hướng sử dụng sức mạnh để trấn áp những người dân trong các giao dịch còn đang tranh cãi. Nếu người dân được phép sở hữu súng, sẽ có ít khiếu kiện đông người tranh chấp đất đai hơn, vì luật lệ khi đó sẽ được tôn trọng hơn do các ông chủ tịch xã hiểu được hậu quả khi người dân bị dồn vào bước đường cùng sẽ đứng lên và phản kháng với vũ khí của họ là như thế nào.
Nếu bạn nghĩ kiểm soát súng là để bảo vệ bạn, hãy suy nghĩ lại.
Quyền sở hữu và sử dụng súng để tự vệ là quyền cơ bản để bảo vệ tự do của chúng ta.

NẾU KHÔNG CÓ TU CHÍNH ÁN SỐ 2 CẢ THẾ GIỚI SẼ RƠI VÀO TAY ĐỘC TÀI.

Nhiều bạn chưa hiểu rõ lắm tầm quan trọng của tu chính án số 2 đối với cả thế giới này chứ không riêng gì nước Mỹ.Tôi đảm bảo với các bạn rằng nếu dở bỏ tu chính án số 2 chỉ trong vòng 100 năm cả thế giới này đều rơi vào tay độc tài và lúc đó khỏi có chuyện tị nạn chính trị, vượt biển vượt biên tìm tự do...vì sống nơi nào cũng như nhau.
Vì sao ?
Các nhà lập pháp Mỹ rất sâu sắc khi đưa quyền sở hữu súng vào hiến pháp . Vì như tổng thống Mỹ Reagan đã nói :" Tự do không bao giờ cách xa sự tuyệt chủng hơn một thế hệ".Và :"Nếu chúng ta mất tự do ở đây (nước Mỹ), sẽ không còn một nơi nào khác để trốn. Đây là trụ cột cuối cùng trên trái đất. Và cái ý tưởng rằng chính phủ phải lệ thuộc người dân, là một ý tưởng mới lạ và khác biệt nhất trong lịch sử nhân loại."
Các bạn cứ suy ngẫm đi. Người Mỹ có nói " Quyền lực có tính tha hóa". Do đó họ không tin vào đạo đức của bất kỳ người nào mà chỉ tin vào các thiết chế để kiểm soát quyền lực. Các thiết chế đó là :
- Đa đảng.
- Tam quyền phân lập.
- Tối cao pháp viện , tòa bảo hiến.
- Phi chính trị hóa quân đội.
- Tự do báo chí.
- Quyền con người.
Và cuối cùng là quyền sở hữu súng.
Nếu tước bỏ quyền này thì do dân không còn súng nên lực lượng cảnh sát sẽ không còn sợ dân nữa mà chỉ lo bảo vệ chính quyền như lực lượng công an bảo vệ đảng CS hiện nay.Lúc đó tình trạng lạm quyền sẽ xảy ra. Và do sự tha hóa của quyền lực nên hai đảng dân chủ và cộng hòa sẽ không còn đối lập với nhau nữa. Trước quyền lực và tiền tài hai đảng này sẽ thỏa hiệp với nhau để tạo nên hình thức đối lập cuội. Bởi vì dại gì kiểm soát lẫn nhau làm gì để phải đưa nhau ra tòa. Tại sao không thông đồng với nhau ,qua mắt người dân để chia chác quyền lợi.
Khi đó sẽ không còn tam quyền phân lập nữa và cũng chẳng còn đối lập hợp pháp. Tòa bảo hiến và tối cao pháp viện coi như đi tong. Quốc hội lúc đó chỉ còn là của một đảng, vừa đá bóng vừa thổi còi y chang Việt Nam. Và luật pháp chỉ là luật của bọn cầm quyền đặt ra. Nguyên tắc không ai ở trên luật cũng vứt vào sọt rác.
Khi Mỹ là một nước độc tài thì với tiềm lực quốc phòng mạnh bằng 10 nước xếp sau cộng lại, Mỹ lần lượt biến các anh Úc, Canada, châu Âu thành độc tài .Bởi lẻ về quốc phòng họ không thể nào chống lại với Mỹ.
Do vậy các bạn ở Úc, châu Âu chưa hiểu nên bảo tại sao các anh không theo gương Úc để kiểm soát súng. Úc sở dĩ kiểm soát súng vì dựa vào Mỹ. Bởi nếu Úc rơi vào độc tài thì dân Úc còn có thể chạy sang Mỹ sống. Nhưng khi Mỹ vẫn còn dân chủ, Mỹ sẽ không để cho một tên độc tài nào lên thôn tính nền dân chủ của Úc. Ngược lại Úc không thể làm điều đó với Mỹ vì ngân sách quốc phòng của Úc quá nhỏ so với Mỹ.
Bởi vậy dân Mỹ đang chịu mặt trái của tu chính án số 2 để bảo vệ tự do cho cả thế giới này. Các anh không biết còn cho dân Mỹ dại . Chán.

KHÔNG PHẢI SỞ HỮU SÚNG NHIỀU LÀ CHẾT VÌ SÚNG CAO NHẤT.

Nhiều người lầm tưởng Mỹ là nước có người chết vì súng cao nhất. Đó là một suy nghĩ sai lầm. Nước Mỹ sở hữu cao nhất về súng trên 100 dân nhưng lại có tỷ lệ tử vong liên quan về súng xếp thứ 46 trong danh sách các nước có tỷ lệ tử vong liên quan về súng sau đây :
- Honduras là nước chỉ có 6,2 khẩu súng trên 100 dân nhưng là nước dẫn đầu thế giới vì chết bởi súng với 66.64/ 100.000 dân /năm tỷ lệ 0 ,01083548 người/mỗi súng/ năm
- Hoa Kỳ là nước sở hữu 101.05 khẩu súng trên 100 dân (cao nhất thế giới) nhưng số người chết là 3.6 /100.000 dân/năm tỷ lệ 0,00010430 người/mỗi súng/năm.Còn dưới rất nhiều nước ở châu Âu như :Hà Lan (0,00014782), Bồ Đào Nha(0,00018588), Ý (0,00011008)... và chỉ nhỉnh hơn các nước như Úc(0,0004286) , Nhật(0,00010000) , Anh(0,0003485)... chút xíu.
Theo danh sách này thì nạn nhân chết bởi súng cao nhất là các nước Trung Mỹ, kế đến là các nước Nam Mỹ và sau đó là châu Âu.
Như vậy với thứ hạng 46 Hoa Kỳ có thể xem là nhờ sở hữu nhiều súng nên dân ít chết vì súng bởi lẻ bọn cướp chỉ nhắm vào người không có súng chứ không dám nhắm vào người có súng.
Theo đó có thể thấy Hoa Kỳ chỉ nổi tiếng bởi các vụ thảm sát chấn động mà thôi vì Hoa Kỳ là trung tâm của truyền thông. Trong khi đó các vụ giết người bởi súng ở các nước khác thì không hề được nhắc đến.
Đây là danh sách lịch sử tỷ lệ tử vong do súng của các quốc gia trên thế giới tính 100.000 dân trong một năm.
Danh sách sau đây bao gồm tự sát, tử vong do tai nạn về súng , và các vụ giết người .
Không bao gồm là tự tử bằng các phương tiện khác, giết người bằng các phương tiện khác, tử vong do tai nạn bằng các phương tiện khác, và / hoặc tử vong hợp lý bằng các phương tiện khác.

NGƯỜI DÂN VIỆT NAM ĐANG BỊ CẦM TÙ BỞI MỘT Ý THỨC HỆ.

Thỉnh thoảng tôi vẫn hay đi dạo một vòng để xem các STT ngoài FL . Xem xong rồi có một nhận định khái quát chung như thế này, không hề có ý xúc phạm ai mà chỉ để nhằm nêu ra một sự thật.
Dân tộc ta đang bị giam trong một nhà tù hữu hình, đó là xung quanh cái diện tích 329.600 km2 mà ai cũng biết. Nhưng còn có một cái nhà tù vô hình khác . Đó là cái ý thức hệ của CNCS mà đa phần do hoàn cảnh xuất thân hay do ảnh hưởng của giáo dục mà hình thành nên.
Bởi vậy theo tôi thì không cần thoát ra khỏi cái nhà tù hữu hình ấy mới mang nghĩa con người tự do. Chỉ cần thoát ra khỏi cái ý thức hệ ấy dù thân thể vẫn còn trong 329.600 km2 thì vẫn có thể xem như là con người tự do. Đó là khái niệm tự do về tư tưởng. Cộng sản chỉ có thể giam cầm về thân thể không thể giam cầm về tư tưởng.
Nhưng nếu xét cái nhà tù ý thức hệ ấy là một cái miệng giếng chật hẹp thì trong 20 năm qua quá trình leo lên khỏi miệng giếng của các "chú ếch" vẫn còn quá chậm.
- Loại thứ nhất vẫn còn ở đáy giếng. Đó là loại chuyên ra các STT để ca ngợi "chủ nghĩa anh hùng cách mạng", "chủ nghĩa dân tộc", tin tưởng vào đảng, bác, tự hào dân tộc.... Loại này không cần nói đến vì nhiễm bệnh quá sâu, hết thuốc chữa. Tất nhiên là loại trừ những kẻ ăn lương "chuyên láo".
- Loại thứ hai cũng khá đông là loại mới trèo lên nửa miệng giếng.Loại này tỏ ra nghi ngờ chủ nghĩa xã hội, không còn tôn thờ bác và đảng. Nhưng STT vẫn còn loanh quanh lôi các đồng chí lãnh đạo nói thế này nói thế kia ra để dẫn chứng . Và vẫn còn rất tin là đảng có thể nhận ra sai lầm để sửa đổi. Quá lắm thì họ sẽ cho là có một cuộc đảo chính nào đó trong nội bộ đảng để chôn cái CNXH và lý tưởng cộng sản xuống bùn. Loại này không ít và các đồng chí chuyên viết STT về thể loại này có thể nhận được hàng ngàn like là chuyện thường.
- Loại thứ ba là loại trèo lên mấp mé miệng giếng. Nghĩa là không còn tin bác và đảng, chửi cộng sản, nhổ toẹt vào CNXH và biết rõ độc tài và dân chủ khác nhau như thế nào. Nhưng các đồng chí này vẫn còn sợ cái còng nên chưa dám leo ra khỏi giếng và vẫn còn đùn đẩy chưa dám đi rỉ tai người khác để thay đổi.
- Loại thứ tư là đã leo hẳn ra khỏi giếng. Nghĩa là đã thấy bầu trời cao rộng ở bên ngoài. Loại này tin rằng chỉ có thay đổi thể chế chính trị , đa đảng, tam quyền phân lập, bầu cử mới làm nên chuyện. Loại này cười mỉa, không quan tâm đến chuyện đấu đá nội bộ mà chỉ quan tâm đến vận động nhân dân. Nhưng họ vẫn còn e ngại khi thấy mình quá ít và thường bị hai loại kia cho là cực đoan.
Nhưng tôi nghĩ khi năm 2020 sắp đến thì số người bị gọi là "cực đoan" này sẽ ngày một nhiều lên. Đó là một quy luật. Khi nỗi sợ vì ung thư , vì diệt chủng cao lên thì nỗi sợ về cái còng sẽ giảm bớt.
Hiện tại thì những STT ở nửa và mấp mé miệng giếng đang nhận được rất nhiều like. Nhưng tương lai những STT ra khỏi miệng giếng sẽ vô cùng đông đảo. Đó là điều không thể khác.Sớm muộn thì đa số cũng phải thoát ra khỏi cái nhà tù ý thức hệ.

NẾU KHÔNG CÓ NƯỚC MỸ CẢ THẾ GIỚI NÀY ĐÃ RƠI VÀO TAY CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT HOẶC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN.

Chúng ta nhớ lại là hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thế giới thứ hai lúc đầu Mỹ đều không định tham gia, vì họ nằm bên Tây bán cầu chẳng ảnh hưởng gì. Mặc kệ phe cực hữu và cực tả đánh nhau. Nhưng một trận Trân Châu Cảng đánh lén đã buộc họ thay đổi quan điểm để tham chiến.Chính sự tham chiến của họ đã cứu một loạt nước như Anh, Pháp, Tây Đức...thoát khỏi thảm họa phát xít.
Nếu như Mỹ đề cao "chủ nghĩa dân tộc" như Đức, Nhật, Trung Quốc và Việt Nam thì nhất định phải có trả thù, thảm sát xảy ra bởi lẻ Nhật đã chơi họ một cú choáng váng, phát xít Đức thì làm hao quân tổn tướng của họ vô kể. Thế nhưng thống tướng Mac Arthur lại đem quân đến Nhật với tinh thần nhân ái và hòa bình. Họ không những không trả thù mà lại còn biến hai kẻ thù của họ thành hai cường quốc về tự do dân chủ.
Vừa xong anh phát xít thì lại đẻ ra anh cực tả là "chủ nghĩa cộng sản". Anh này ác còn gấp mấy lần anh phát xít và Mỹ phải ngậm ngùi nhìn Hồng Quân Liên Xô tràn vào Đông Âu để rồi chia cắt nước Đức, sau đó lan sang Trung Quốc và xuống Việt Nam. Không đành lòng để thế giới này rơi vào tay cực tả Mỹ phải nhảy vào Việt Nam để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản và để lại đây 58.000 quân. Nhưng làm ơn mắc oán ,họ bị cộng sản vu là đến Việt Nam để xâm lược và thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.
Tuy nhiên việc tham gia vào chiến tranh Triều Tiên để rồi biến Hàn Quốc thành một con rồng của Châu Á đã khiến các luận điệu xuyên tạc câm bặt. Khi "chủ nghĩa cộng sản" bị chặn lại ngay tại Indonesia và không còn lan ra các nước Đông Nam Á khác Mỹ quyết định bỏ Việt Nam để tập trung sức vào chiến tranh lạnh nhằm giải quyết Liên Xô và Đông Âu. Nhưng khi rút ra khỏi Việt Nam họ bị gieo tiếng oán là bỏ rơi đồng minh và khiến CSVN tự sướng là đã đánh thắng người Mỹ. Sự thực thì quân đội cộng sản làm sao so sánh với quân đội của phát xít Đức , Nhật nên không thể gọi là đánh thắng khi tỷ lệ trên chiến trường là 1 quân nhân Mỹ đổi 10 lính VC. Do dân Việt Nam quá u mê đem thân chết thế nên Mỹ không muốn sa lầy vào một cuộc chiến mà kết quả là chỉ bắn vào dân Việt cho dù họ có hay không có mặc áo lính.
Mỹ không cần cái danh chiến thắng rởm và nhường nó cho CSVN. Họ cũng không phản bội khi kẻ kết thúc chiến tranh là lá phiếu của dân Mỹ chứ không phải quyền của chính phủ. Tuy nhiên từ đây thế giới phong cho họ chức danh lãnh đạo thế giới rồi cột chặt họ vào trách nhiệm với nhân quyền. Bởi "Tuyên ngôn độc lập Mỹ" của Thomas Jefferson đã đưa ra khái niệm này.
Nhưng nhân quyền là quyền tự nhiên của con người. Nó tương tự như quyền ăn, quyền nói, quyền đại tiện... Nó không phải là quyền đồng thuận xã hội nên người dân phải tự giành lấy chứ không nên chờ ai ban cho hoặc can thiệp vào chính phủ của mình. Thử tưởng tượng khi anh bị một người nào đó bít mũi không cho thở thì anh phải lấy hết sức để thoát ra nhằm thực hiện quyền được thở của mình. Anh không thể chờ nước Mỹ can thiệp vào quyền này của anh. Bởi vì nếu đợi đến lức đó có lẻ anh đã chết.
Bây giờ anh có nước Mỹ để nhờ cậy nhưng ngày xưa khi Martin Luther King đấu tranh nhân quyền ông ta đâu có kêu chính phủ Anh,Pháp can thiệp vào chính phủ Mỹ để giải cứu cho ông? Ông ta chỉ kêu gọi người da đen vùng lên đấu tranh để tự giải cứu mình. Tại sao bây giờ các nhà ĐT DC Việt cứ hễ đụng chuyện là nhìn về phía Mỹ và đòi đái vào tổng thống Mỹ mà không học gương của Luther King ? Đó là vì sự ỷ lại đã ăn sâu vào đầu.
Sau một thế kỷ đứng ra lãnh đạo thế giới ,tốn không biết bao nhiêu tiền của ,nhân lực vật lực vào 2 cuộc chiến tranh thế giới, chiến tranh Triều Tiên và Việt nam, chiến tranh lạnh để giải cứu Liên Xô và Đông Âu...là đầu tàu tiếp nhận tị nạn, di dân,làm trụ cột của tự do, rồi bị gán thêm trách nhiệm về vấn đề biến đổi khí hậu...Mỹ cũng đã quá mệt mỏi với cái danh hão "lãnh đạo thế giới'.
Thôi thì bây giờ tôi đã quá chán cái danh này rồi. Tôi rút ra ai muốn mần gì đó thì mần, tôi chỉ lo cho dân tôi. Tôi xây dựng một lực lượng quân đội đủ mạnh để không có đứa nào dám đụng đến tôi và giao cho các anh trách nhiệm đòi lại quyền con người của các anh từ tay bọn biến các anh thành vật. Tôi chỉ can thiệp khi chúng mổ sống các anh hoặc gây ra thảm sát nhân loại.
Đó là vì không phải tôi không thương các anh mà là vì tôi không muốn các anh ỷ lại trông chờ vào người khác. Thật buồn cười khi cho rằng chính vì Mỹ rút lui nên châu Á không còn coi Mỹ ra gì. Đây là chiêu khích tướng. Mỹ không cần danh hão thì dẫu dân Trung Quốc, dân Việt Nam không coi ông Trump ra gì cũng chẳng quan trọng. Cái chính là dân Mỹ coi ông Trump như thế nào mới quan trọng. Chỉ có 330 triệu dân Mỹ , ông chủ của Trump đánh giá Trump như thế nào mới là điều đáng nói.
Khi Trump đứng đằng xa vấn đề nhân quyền có khi lại là cái hay với dân Việt. Lâu nay đã quá quen với việc lên tiếng của dân biểu Mỹ, các giải thưởng động viên của các tổ chức theo dõi nhân quyền giờ đây họ mới biết rằng "sẽ tốt hơn biết bao nếu sống trong một đất nước không cần có các giải thưởng này".
Không còn cách nào khác dân Việt phải tự mình biến thành một Martin Luther King, phải noi gương nước Mỹ vì họ đã không cần nhờ đến ai để trở thành một cường quốc như hôm nay. Sự can thiệp của nước Mỹ với thế giới này như thế là đã quá đủ. Và cũng đến lúc họ phải trở về với mục tiêu " Make America great again".
Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại bất kể các lời dèm pha và cũng trao luôn cho các dân tộc khác quyền tự cứu chính mình.Đó cũng là con đường đi đúng đắn của Trump.

TIÊU THỤ HÀNG TRUNG QUỐC SẼ BỊ UNG THƯ NHƯ THẾ NÀO ?

Bình thường tại những đất nước không cho người dân một đời sống ấm no, người dân phải làm việc quần quật ngày đêm để gia đình có được ba bữa cơm trong ngày, tiền trả học phí cho con trong năm, và vì thế vấn đề sức khỏe, họ hầu như không dám nghĩ đến, chỉ ”xin” phó mặc cho ”Trời”, đến đâu hay đó. Có cơm ăn mỗi ngày đã là một việc khó, họ không có thì giờ nghĩ đến chuyện xa xôi như là “Nếu một mai, bị mắc bệnh, phải chữa trị bằng thuốc men, phải vào nhà thương điều trị…”

Hiện tại có rất nhiều người ở Viêt Nam đã bị bệnh nặng và khi chạy chữa đã phải vay mượn người quen hoặc bán nhà bán cửa, như trường hợp những gia đình có người mắc phải những căn bệnh suy thận phải lọc máu tháng nầy qua tháng khác, hoặc suy tim phải mổ, bị ung thư phải điều trị lâu dài, nhiều người cũng nghĩ đến bản thân và gia đình mình mà thầm lo lắng. Nhưng rồi cái lo như thế cũng qua vì chưa là cảnh họ gặp phải. Công việc kiếm sống càng ngày càng quá khó khăn đã lấy đi nỗi lo đó, họ chỉ còn nghĩ đến cái lo phải kiếm cho đủ sống mỗi ngày.
Một vấn đề rất trầm trọng đã xuất hiện, đó là việc tiêu thụ hàng Trung Quốc và mắc phải những chứng bệnh nan y. Chất độc hóa học đầy rẫy trong hàng hóa thực phẩm từ Trung Quốc nhập vào Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới đang lan tràn mọi nơi. Với những ngón đòn thương mãi ma đạo, Trung Quốc sử dụng các độc chất hóa học, phẩm công nghệ với liều lượng rất cao trong việc chế biến sản phẩm của họ để giữ cho hàng hóa thực phẩm của Trung Quốc không bao giờ hư mốc. Đó là chủ đích để kiếm được nhiều tiền lời do bởi hàng hóa không hư mốc nên họ không bao giờ lỗ vốn.
Các chất độc hóa học được xử dụng trong hàng hóa thực phẩm, sản phẩm của Trung Quốc đã đem lại cho người tiêu thụ một căn bệnh thời đại khi vô tình tiêu thụ các lọai hàng hóa thực phẩm kể trên, đó là bệnh “Ung thư ”.
Chính quyền Cộng sản Việt Nam thả lỏng hoàn toàn việc nhập hàng Trung Quốc bằng cách ”khuyến khích” qua sự kiện hạ thuế nhập cảng hàng Trung Quốc đến gần con số 0. Bất kể là hàng gì cũng cho phép. Do đó hàng Tàu tràn ngập thị trường Việt Nam. Qua sự kiện nầy, chúng ta thấy rõ, người dân mình không được bảo vệ thì chớ, nhà cầm quyền Hà Nội lại còn tiếp tay cho Trung Quốc trong việc cho nhập vào nước những hàng hóa đầy chất hóa học nguy hiểm, gây tử vong cho người tiêu thụ.

Hàng Trung Quốc là nguy cơ của các lọai bệnh ung thư có tính cách ”cấp tính” do lượng độc chất trong hàng Tàu quá cao. Hàng Trung Quốc đang chiếm hữu đang tràn ngập thị trường Việt Nam. Hàng Tàu là Tử Thần. Hàng Tàu là giặc. Hàng Tàu đem lại những căn bệnh cho người già người trẻ, và ngay cả những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ cũng sẽ mắc phải những chứng bệnh nan y khi tiêu thụ hàng Tàu.. Các độc chất ướp, tẩm, pha trộn trong thức ăn trong bánh mứt, trong trà, trong vật dụng mà chúng ta mua về ăn uống và xử dụng là nguồn độc chất khổng lồ chúng ta phải tránh xa.

Lượng hàng Trung Quốc đang chiếm cứ thị trường tiêu thụ tại Việt Nam có bề ngoài tươi, đẹp như các loại rau quả to lớn, tươi thắm, lâu hư. Xử dụng hàng Tàu, ăn uống hàng Tàu cuộc sống của chúng ta sẽ đi dần vào những tháng năm héo tàn khi phải lăn lộn trong bệnh họan. Đời sống chúng ta sẽ trở thành tăm tối mịt mù và đầy đau đớn.
Hàng Trung Quốc là hàng gì và vì sao độc hại? Ngày trước chúng ta gọi người Trung Hoa là người Tàu, vì họ đến xứ ta bằng thương thuyền. Họ là những thương gia đến Việt Nam buôn bán bằng tàu bè nên dân mình gọi họ là nguời Tàu kể từ đó. Hàng Tàu là hàng hóa thực phẩm nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc.
Nhiều nghiên cứu cho thấy hàng Trung Quốc được chế biến bằng nhiều hóa chất. Cụ thể như Formol được xử dụng trong bánh phở sợi bún để chống thiu, mốc. Formol là loại hóa chất dùng ướp xác chết để giữ xác được tươi lâu, không bị thối rửa. Formol là một hóa chất cấm không được dùng trong thực phẩm, lại được người Tàu dùng để ướp chân, lòng gà vịt, và thịt gà để tránh bị thối rữa trên đường chuyển qua biên giới Việt Nam (vào ngõ Cao Bằng, Lạng Sơn).
Trong hàng hóa Tàu còn tìm thấy có xử dụng các chất hóa học cực độc như Sodium benzoate chống mốc. Phẩm nhuộm công nghệ Sudan, Rhodamine được dùng để nhuộm mứt bánh, hột dưa có được màu tươi, lại giữ màu được lâu bền. Đặc biệt hóa chất Endo sulfan và Metamidophos/Monitor được Trung Quốc cho vào thức ăn để chống mốc là một loại thuốc trừ sâu rất độc, hoàn toàn cấm không được dùng trong thực phẩm. Lượng sử dụng các loại hóa chất nầy rất cao được tìm thấy trong hàng hóa Tàu, gây tác hại trầm trọng như sự hủy họai hệ thần kinh và nội tạng của người xử dụng, và còn là các hóa chất có khả năng gây ung thư rất cao.
Độc chất hóa học được giới sản xuất tại Trung Quốc xử dụng để tạo những bắp cải rau trái tươi mát đẹp mắt, thức ăn lâu hư lâu mốc có mặt trong thức ăn hàng hóa nhập vào Việt Nam. Đó là các chấtRhotenone, Fluoro-quinolones, 3-MCPD, Nitrofuran, Chloramphenicol, Semicarbazide, Chì, Thủy ngân, Arsenic,kích thích tố tăng trưởng 2,4,5-T (hóa chất Da Cam): Nguyên nhân của vô số các bệnh ung thư. Nitrite sử dụng làm cho cây trái, rau đậu được tươi xanh, phần lớn tạo các bệnh ung thư bao tử và ruột già.

Ngoài chất Formol tìm thấy, hóa chất Sodium benzoate chống sự thiu mốc của hàng hóa được đều đặn xử dụng trong trà, hạt tiêu. Các loại củ hay trái cây khô nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc đều có chứa nhiều chất chì, thủy ngân và Arsenic. Chất Phenolđược sử dụng với liều lượng rất lớn trong thực phẩm Tàu như hiện nay có ảnh hưởng nguy hại đến hệ thần kinh, nguy hiểm cho trẻ em và thai nhi trong bụng mẹ. Tóm lại các chất Urea, Chì, Thủy ngân, Arsenic tìm thấy trong hàng Tàu có nguy cơ gây bệnh ung thư rất cao.

Nhiều nghiên cứu cho thấy xác suất tiêu dùng đồ Trung Quốc và bị nhiễm bệnh ung thư rất cao, đưa đến việc tử vong, cần phải tránh xa. Thức ăn của Trung Quốc ”ướp” đầy hóa chất gây ung thư sau khi đã hấp thụ thì không còn đường chạy chữa. Khác với việc ăn uống các thức ăn được sản xuất tại các nước khác trên thế giới như ở Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu, chúng ta chỉ bị bệnh trường hợp không biết tiết chế điều độ. Những căn bệnh mắc phải sẽ là các chứng cao máu, cao mỡ, tiểu đường v.v… Một số bệnh phát sinh do tệ trạng hút thuốc lá, gây ra bệnh ung thư như ung thư phổi chết người. Người hút thuốc lá trở thành nghiện hút thuốc lâu ngày mà mắc bệnh ung thư. Nhưng nếu biết chọn lựa để không hút thuốc lá, chúng ta tránh được bệnh ung thư phổi.
Việc ăn thức ăn Âu Mỹ bị mang bệnh cũng được nói đến về sự kiện không biết tiết giảm lượng muối lượng chất béo trong thức ăn, lâu dần từ năm này qua năm khác, nhiều người mắc phải chứng bệnh cao máu, cao mỡ, bệnh gan, suy tim, suy thận v.v.. Chúng ta có quyền lựa chọn khi xử dụng các thức ăn bình thường. Nếu chọn ăn uống thỏa thích với quá nhiều chất béo, ít vận động lâu ngày đưa đến chứng mập phì tạo nên những căn bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch. Rất nguy hiểm cho tánh mạng như bị đột qụy, tai biến mạch máu não. Tuy nhiên những căn bệnh nầy có thể chữa trị được. Và nếu biết chọn cách ăn uống điều độ vừa phải chúng ta sẽ không bị bệnh lại tạo được cho mình một đời sống lành mạnh, một sức khỏe khả quan.
Sử dụng hàng Tàu trái lại không cho chúng ta khả năng lựa chọn, vì tiêu thụ hàng Tàu sẽ đem lại cho chúng ta những căn bệnh ung thư không thể chữa trị được. Tiêu thụ hàng Tàu sẽ bị nhiều độc chất hóa học tích tụ trong cơ thể. Và lâu dần với một số lượng hóa chất quá lớn sẽ tạo tình trạng nguy hiểm, tiến thối lưỡng nan, vô phương cứu chữa. Bởi vì lượng độc chất tai hại đã vào trong cơ thể sẽ không thải khỏi cơ thể chúng ta được, và giới Y học không thể chữa trị cho chúng ta trở lại lành mạnh được. Bởi vì khi các độc chất nầy bám vào cơ quan trong người, nó sẽ bành trướng phát triển ác tính và tạo thành bệnh ung thư, đưa đến cái chết.
Chúng ta phải biết rõ để tránh cho chính chúng ta và gia đình người thân việc tiêu thụ hàng Tàu. Đó là một sự lựa chọn sáng suốt. Chúng ta phải biết rõ việc chọn ăn đồ Tàu, diễn tiến sẽ ra sao và hậu quả sẽ như thế nào?
DIỄN TIẾN PHÁT SINH BỆNH UNG THƯ
Cơ thể chúng ta là một guồng máy tuyệt diệu trời sinh. Các tế bào trong cơ thể có sự cân bằng của số tế bào chết được thải ra với số tế bào sống được sinh ra thay thế số tế bào chết, sẽ làm cho guồng máy nầy họat động đều đặn và tốt đẹp. Khi lượng tế bào chết thải ra được cân bằng với lượng tế bào sống sinh ra, ”guồng máy” sẽ họat động hài hòa. Các hóa chất độc hại đi vào cơ thể của chúng ta qua đường thực quản hay khí quản. Cụ thể như đi vào các bộ phận trong cơ thể chúng ta như bao tử, gan, thận, đường ruột… những cơ quan liên quan đến việc hấp thụ, lọc, thải những chất độc trong người chúng ta. Khi các cơ quan nầy bị độc chất hóa học tấn công do trực tiếp bị ảnh hưởng từ lượng thức ăn nước uống được hấp thụ sẽ phát sinh bệnh ung thư.
Một chất hóa học được xem là độc chất gây ung thư, sẽ không có khả năng được tiêu hóa, tống thải khỏi cơ thể chúng ta theo đường thải của phân hoặc nước tiểu, sẽ đọng lại bám vào một bộ phận trong cơ thể. Thoạt đầu nó tụ thành điểm đóng chiếm một chỗ sẽ tạo sự rối loạn cho sinh họat của các tế bào lành mạnh hiền (tế bào sống) tại đó. Dần dần nó chiếm chỗ và ”quấn” vào tế bào khỏe mạnh làm ”vướng chân vướng tay”. Sau đó nó biến dạng các tế bào lành mạnh mà nó ”vớ” được, thay hình đổi dạng tế bào lành mạnh nầy bằng cách hủy họai và phá hỏng sinh hoạt bình thường của tế bào lành mạnh đó, biến tế bào nầy thành tế bào độc, dẫn đến sự hỗn lọan trong cân bằng sinh diệt của tế bào sống và tế bào chết tại cơ quan đó. Khối tế bào độc nầy sẽ làm nghẽn hệ thống tuần hòan, gây rối lọan trong sự điều độ và hài hòa của cơ thể. Các tế bào biến dạng nầy được gọi là tế bào ung thư. Đó là quá trình xuất hiện của tế bào ung thư do ảnh hưởng các độc chất chúng ta hấp thụ từ hàng Trung Quốc .
Các tế bào ung thư có khả năng ”len lách” từ từ di chuyển đến mọi cơ quan khác trong thân thể theo phần dung dịch của cơ thể. Dung dịch của cơ thể là những chất nhờn hoặc chất lỏng chuyển vận trong cơ thể, với công năng tạo sự trơn tru cho các họat động và các chuyển động bên trong cơ thể. Lẫn trong phần chất nhờn chất lỏng luân lưu trong cơ thể, tế bào ung thư lan dần đến các cơ quan khác để ”tiến chiếm” các vị trí mới, gây tạo ảnh hưởng phá họai qua tiến trình sinh sôi, phát triển để chận đường sinh hóa của tế bào lành mạnh tại các cơ quan mới chiếm cứ nầy. Sự lan qua các cơ quan khác trong cơ thể chúng ta như thế gọi là di căn. Khi các tế bào ung thư có khả năng lan nhanh và tàn phá những bộ phận khác trong người, các tế bào ung thư nầy sẽ chận đường hô hấp tiêu hóa của cơ thể, con người sẽ đi đến tử vong.
Tuy nghe nói hàng Trung Quốc đáng sợ, nhưng có thể vì rẻ nên nhiều người, nhất là những người dân nghèo “cố gắng phớt lờ” và vẫn mua hàng Tàu cho có mà dùng. Đặc biệt mỗi độ Xuân về, Tết sắp đến, phải có một ít mứt bánh trái cây cúng ông bà ba ngày Tết. Bà con hàng xóm bạn bè đến chúc Tết, phải có mứt bánh với tách trà đầu năm đãi khách.
Dùng mứt bánh kẹo trái cây của Trung Quốc thì rẻ thật, nhưng hậu quả lại đắt vô cùng. Đó là ăn và dùng đồ của Trung Quốc rồi mắc phải bệnh, thì lấy tiền đâu mà mua thuốc mà trả viện phí nếu phải vào nhà thương chữa trị. Chưa nói đến viêc bị ung thư thì cơn đau hành hạ thân thể khổ sở vô cùng. Bệnh ung thư khi đã phát, sẽ tạo những cơn đau dữ dội và khi bệnh đã đến giai đọan nặng thì những cơn đau trong thời gian nầy chỉ có thể làm giảm bớt bằng morphin hoặc thuốc phiện. Nhiều căn bênh ung thư người bị bệnh trong suốt thời gian chữa trị đã chịu nhiều tốn kém, nhiều cơn đau đớn, cuối cùng cũng phải chấp nhận cái chết. Vì thế ăn đồ Trung Quốc tuy rẻ mà rất đắt, vì phải trả cái giá bằng sinh mạng của một con người. Chưa kể đến cảnh những gia đình nghèo chạy bở hơi tai vay tiền vay của để có tiền chạy chữa thuốc men cho thân nhân. Khi người bệnh qua đời, người thân còn lại, vợ hoặc chồng, con cái là những người vẫn phải tiếp tục mang cái khổ vì hàng Trung Quốc , phát sinh từ căn bệnh của người thân vừa nằm xuống, là sự thiếu hụt, là nợ nần họ phải trả. Đã nghèo khổ lại càng khốn khó thêm hơn.
Thức ăn vật dụng từ Trung Quốc nhập vào Việt Nam và các nước trên thế giới, có số lượng hóa chất độc hại hoặc lượng hóa chất cho phép sử dụng lại quá sức cao hơn mức ấn định, hoặc là có những hóa chất công nghệ tuyệt đối không được sử dụng trong phạm vi thực phẩm, vẫn được Trung Quốc sử dụng, sẽ tụ đọng trong cơ thể ta rất nhiều. Số lượng độc chất càng nhiều, cơ quan trong người càng bị tấn công nhanh và tấn công nhiều nơi. Việc mắc chứng bệnh ung thư không phải là vấn đề rất lâu năm mà có thể khá nhanh chóng. Hãy bảo trọng sức khỏe của mình và của người, nhất là của những người thân trong gia đình. Không ý thức được sự độc hại của hàng Trung Quốc , vẫn mua về dùng là chúng ta tiếp tay cho Giặc Tàu hại đến sinh mạng thân nhân mình. Trách nhiệm đó quá to lớn và hậu quả gặp phải thật quá đau thương.